Bản án 37/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy  

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 37/2021/HS-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 22/4/2021 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2021/TLST- HS ngày 02/4/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28A/2021/QĐXXST - HS ngày 07 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lê Tuấn M; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 22/2/1989. Tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai; Giới tính: Nam;

Nơi cư trú: Tổ 15, phường P, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Lê Văn T và con bà Nguyễn Thị Đ ;

Bị cáo chưa có vợ, con;

Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

2. Họ và tên: Đào Xuân T; Tên gọi khác: Út T; Sinh ngày 15/8/1983.

Tại thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai; Giới tính: Nam;

Nơi cư trú: Tổ 12, phường P, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.

Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Đào Văn T (đã chết) và con bà Hoàng Thị H;

Bị cáo có vợ: Trần Thị Minh N (Đã ly hôn);

Bị cáo có 01 con sinh năm 2007. Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Về nhân thân:

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 473/2013/HSST ngày 12/8/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử 04(Bốn) tháng 02(Hai) ngày tù về tội: “Đánh bạc”.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 251/2016/HSST ngày 19/8/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã An Dĩ, tỉnh Bình Dương xét xử 02(Hai) năm 06(Sáu) tháng tù về tội: “ Vận chuyển trái phép chất ma túy” đến ngày 23/5/2018 bị cáo đã chấp hành xong.

- Tại quyết định số: 1659/QĐ- UBND ngày 16/7/2007 bị cáo Đào Xuân T bị Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục tại Cở sở giáo dục Thanh Hà – Bình Xuyên – Vĩnh Phúc. Với thời hạn 24 tháng bị cáo Đào Xuân T đã chấp hành xong.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Đ – Sinh năm: 1961. Địa chỉ: Tổ 15, phường P, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt.

Người chứng kiến: Anh Trần Bình K – Sinh năm: 1990 Địa chỉ: Tổ 14, phường P, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 7 giờ 30 phút ngày 15/12/2020 tại khu vực đường H, thuộc tổ 13, phường P, thành phố Lào Cai, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Lào Cai phối hợp với Công an phường P, thành phố Lào Cai tiến hành kiểm tra một nam giới đang dừng đỗ xe máy ven đường có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy, người nam giới khai tên là Lê Tuấn M, đang cất giấu ma túy trên người và tự giác mở lòng bàn tay trái giao nộp 01 gói giấy bạc, bên trong có 01 gói nilon màu đen chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục; M khai là ma túy Heroine vừa mua được của một người nam giới tên là Đào Xuân T với giá 100.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã dẫn giải, đưa vật chứng, phương tiện về trụ sở Công an phường P lập biên bản bắt người phạm tội quả tang; lập biên bản niêm phong vật chứng; ngoài ra còn tạm giữ của Lê Tuấn M 01 xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter màu đen bạc biển kiểm soát 24K9-8135, 01 điện thoại di động hiệu Huawei màu đen đã qua sử dụng.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Đào Xuân T tại số nhà 020, ngõ 01, đường H, tổ 12, phường P, thành phố Lào Cai, quá trình khám xét, Đào Xuân T khai nhận đang cất giấu ma túy dưới đệm trên giường ngủ và tự giác giao nộp 01 túi nilon màu trắng bên trong có 03 gói giấy bạc, bên trong mỗi gói đều là mảnh ni lon màu đen chứa chất bột khô, vón cục, màu trắng; T khai nhận đó là ma túy Heroine, mục đích cất giấu để bán kiếm lời. Cơ quan điều tra đã tiến hành niêm phong vật chứng; ngoài ra còn tạm giữ của Đào Xuân T 01 tờ tiền mệnh giá 100.000 đồng là tiền bán Heroine cho Lê Tuấn M, 05 mảnh giấy bạc, 05 mảnh nilon màu đen; 1.100.000đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia đã qua sử dụng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Asus đã qua sử dụng.

Bị cáo Lê Tuấn M khai nhận nguồn gốc số ma túy Heroine đã thu giữ: Ngày 15/12/2020M điều khiển xe máy Yamaha Jupiter, BKS 24 K9-8135 từ nơi ở tại tổ 15, phường P đến nhà Đào Xuân T tại tổ 12, phường P, thành phố Lào Cai mua ma túy để sử dụng. Qua trao đổi bị cáo đã mua của Đào Xuân T 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng, bị cáo cầm gói ma túy vừa mua được trong lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe máy đi về nơi ở, khi đi đến khu vực ven đường H, thuộc tổ 13, phường P, thành phố Lào Cai thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt quả tang cùng tang vật.

Bị cáo Đào Xuân T khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 14/12/2020, T đi xe ôm từ nơi ở tại tổ 12, phường P, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai đến khu vực gầm cầu L, xã C, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai để mua Heroine. Đến nơi, T gặp và mua của một người nam giới (không biết tên, tuổi, địa chỉ) 01 gói Heroine với giá 400.000đồng rồi mang về nhà chia nhỏ số ma túy mua được vào 05 mảnh nilon màu đen rồi gói vào 05 mảnh giấy bạc, sau đó T sử dụng 01 gói và cho 04 gói còn lại vào 01 túi nilon để dưới đệm giường ngủ. Mục đích để bán kiếm lời. Ngày 15/12/2020 T bán 01 gói Heroine cho Lê Tuấn M với giá 100.000 đồng còn lại 03 gói Heroine T đã giao nộp cho Cơ quan điều tra khi khám xét khẩn cấp.

Tại kết luận giám định số: 04/GĐMT ngày 17/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 0,10 (không phẩy mười) gam chất bột khô vón cục, màu trắng (mẫu M1) và 0,16 (không phẩy mười sáu) gam chất bột khô vón cục, màu trắng (Mẫu M2) là loại chất ma túy Heroine.

Cáo trạng số: 31/CT-VKS- TPLC ngày 31/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo Lê Tuấn M về tội “ Tàng trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 - Bộ luật hình sự. Bị cáo Đào Xuân T (Tên gọi khác: Út T) về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 - Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Tuấn M về tội: “ Tàng trái phép chất ma túy”. Bị cáo Đào Xuân T (Tên gọi khác: Út T) về tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy” và đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Tuấn M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo Đào Xuân T (Tên gọi khác: Út T) về tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Tuấn M từ 01(Một) năm đến 01(Một) năm 03 (Ba) thông tự.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đào Xuân T (Tên gọi khác: Út T) từ 02(Hai) năm 03(Ba) tháng ®Õn 02(Hai) n¨m 06 (Sáu) tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là “Phạt tiền” đối với các bị cáo.

Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 - Bộ luật hình sự và điểm a,c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 0,05 (không phẩy không năm) gam Heroine còn lại được đựng trong bì thư tái niêm phong có chữ ký của hai bên giao nhận và dấu của phòng KTHS - Công an tỉnh Lào Cai. Bì niêm phong có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ của Lê Tuấn M ngày 15/12/2020 tại tổ 13, phường P, thành phố Lào Cai”; 0,11 (không phẩy mười một) gam Heroine còn lại được đựng trong bì thư tái niêm phong có chữ ký của hai bên giao nhận và dấu của phòng KTHS - Công an tỉnh Lào Cai. Bì niêm phong có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi khám xét chỗ ở của Đào Xuân T ngày 15/12/2020 tại tổ 12, phường P, thành phố Lào Cai” và 05 mảnh giấy bạc; 05 mảnh ni lon màu đen của bị cáo Đào Xuân T.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000đồng của bị cáo Đào Xuân T do phạm tội mà có.

Tạm giữ số tiền 200.000đồng trong số tiền 1.100.000đồng thu giữ của bị cáo Đào Xuân T để đảm bảo thi hành án. Số tiền còn lại 900.000đồng trả lại cho bị cáo Đào Xuân T.

Tạm giữ 01 điện thoại di động hiệu Huawei màu đen có số IMEI: 867273030580828 (đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ) của bị cáo Lê Tuấn M để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Đào Xuân T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có số IMEI 357338086283739 (đã qua sử dụng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Asus có IMEI 358409082620361 (đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ).

Tuyên án phí và quyền kháng cáo đối với các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Lê Tuấn M; Đào Xuân T nói lời sau cùng: Các bị cáo biết hành vi của các bị cáo là vi phạm pháp luật, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lào Cai, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo Lê Tuấn M; Đào Xuân T khai nhận: Ngày 14/12/2020 bị cáo Đào Xuân T đã mua ma túy của một người đàn ông không quen biết với mục đích để sử dụng cho bản thân và bán kiếm lời đến ngày 15/12/2020, bị cáo Đào Xuân T đã bán cho bị cáo Lê Tuấn M 0,10 gam Heroine với số tiền là 100.000đồng. Mục đích bị cáo Lê Tuấn M mua về sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang. Khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo Đào Xuân T thu giữ 0,16 gam Heroine, bị cáo Đào Xuân T khai nhận mục đích để bán kiếm lời.

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiờn toà hoàn toàn phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, phự hợp với bản kết luận giỏm định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã đủ căn cứ kết luận hành vi tàng trữ 0,10 (không phẩy mười) gam chất ma túy Heroine của bị cáo Lê Tuấn M đã cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 - Bộ luật hình sự. Bị cáo Đào Xuân T có hành vi mua, bán 0,26 (không phẩy hai mươi sáu) gam chất ma túy Heroine. Mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Đến ngày 15/12/2020 bị cáo đã bán cho bị cáo Lê Tuấn M 01 gói ma túy có trọng lượng 0,10 (không phẩy mười) gam với giá 100.000đồng. Khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo Đào Xuân T thu giữ 0,16 gam chất ma túy Heroine. Mục đích để bán kiếm lời. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 - Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố các bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước ta, gây mất trật tự trị an tại địa phương . Vì vậy cần phải xử phạt các bị cáo một mức án thật tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của cỏác bị cáo đã gây ra mới có tác dụng cải tạo các bị cáo.

 [3] Về các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với các bị cáo.

Các bị cáo Lê Tuấn M; Đào Xuân T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo Đào Xuân T về nhân thân:

-Tại bản án hình sự sơ thẩm số:

473/2013/HSST ngày 12/8/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử 04(Bốn) tháng 02(Hai) ngày tù về tội: “Đánh bạc”. Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 251/2016/HSST ngày 19/8/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã An Dĩ, tỉnh Bình Dương xét xử 02(Hai) năm 06(Sáu) tháng tù về tội: “ Vận chuyển trái phép chất ma túy” đã được xóa án tích.

- Tại quyết định số: 1659/QĐ- UBND ngày 16/7/2007 bị cáo Đào Xuân T bị Chủ tịch UBND tỉnh Lào Cai áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục tại Cở sở giáo dục Thanh Hà – Bình Xuyên – Vĩnh Phúc. Với thời hạn 24 tháng bị cáo Đào Xuân T đã chấp hành xong.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Hội đồng xét xử xét thấy tại cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Lê Tuấn M gia đình bị cáo có ông nội là ông Lê Văn Lạc được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến chống mỹ cứu nước hạng Nhì. Bị cáo Đào Xuân T gia đình bị cáo có bố đẻ là ông Đào Văn T được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến sĩ giải phóng hạng Nhì và Huân chương kháng chiến chống mỹ cứu nước hạng Ba. Vì vậy cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là phù hợp.

[4] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra đã xác định các bị cáo không có nghề nghiệp và không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là “Phạt tiền” đối với các bị cáo.

[5] Về vật chứng: Số lượng 0,10 (không phẩy mười) gam Heroine thu giữ của bị cáo Lê Tuấn M cơ quan điều tra đã trích mẫu 0,05 (không phẩy không năm) gam và đã sử dụng hết trong quá trình giám định. Số lượng Heroine còn lại là 0,05(không phẩy không năm) gam Heroine. Thu giữ của bị cáo Đào Xuân T cơ quan điều tra đã trích mẫu 0,05(không phẩy không năm) gam và đã sử dụng hết trong quá trình giám định. Số lượng Heroine còn lại là 0,16 (không phẩy mười sáu) gam Heroine. Đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ và 05 mảnh giấy bạc; 05 mảnh ni lon màu đen. Bị cáo Đào Xuân T đã sử dụng vào việc phạm tội. Vì vậy cần tịch thu tiêu huỷ.

Đối với số tiền 100.000đồng thu giữ của bị cáo Đào Xuân T. Đây là tiền bị cáo Đào Xuân T đã bán 01 gói Heroine cho bị cáo Lê TuấnM. Xét thấy đây là tiền do bị cáo phạm tội mà có. Vì vậy, cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Đối với số tiền 1.100.000đồng thu giữ của bị cáo Đào Xuân T. Xét thấy không phải là vật chứng của vụ án nhưng bị cáo Đào Xuân T còn phải thi hành khoản tiền án phí. Vì vậy, cần tạm giữ của bị cáo Đào Xuân T số tiền 200.000 đồng trong số tiền 1.100.000 đồng để đảm bảo thi hành án. Số tiền còn lại 900.000 đồng trả lại cho bị cáo Đào Xuân T.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Huawei màu đen có số IMEI: 867273030580828 (đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ) của bị cáo Lê Tuấn M. Xét thấy không phải là vật chứng của vụ án nhưng bị cáo Lê Tuấn M còn phải thi hành khoản tiền án phí. Vì vậy, cần phải tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có số IMEI 357338086283739 (đã qua sử dụng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Asus có IMEI 358409082620361 (đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ) của bị cáo Đào Xuân T. Xét thấy không phải là vật chứng của vụ án. Vì vậy cần trả lại cho bị cáo Đào Xuân T. [6] Về các vấn đề khác: Đối với người nam giới mà bị cáo Đào Xuân T khai đã bán ma túy cho bị cáo Đào Xuân T vào ngày 14/12/2020, do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này ở đâu, ngoài lời khai của bị cáo ra không có tài liệu nào khác để chứng minh. Do vậy, không điều tra, làm rõ được, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter màu đen bạc biển kiểm soát 24K9- 8135. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của bà Nguyễn Thị Đ là mẹ bị cáo Lê Tuấn M, bà Nguyễn Thị Đ không biết bị cáo Lê Tuấn M sử dụng đi mua ma túy. Vì vậy, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại bà Nguyễn Thị Đ là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, Lê Tuấn M Điều 51 - Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Lê Tuấn M phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Phạt bị cáo Lê Tuấn M 01(Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 15/12/2020.

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Đào Xuân T (Tên gọi khác: Út T) phạm tội: “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Phạt bị cáo Đào Xuân T 02(Hai) năm 03(Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 15/12/2020.

2. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 - Bộ luật hình sự và điểm a,c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 0,05 (không phẩy không năm) gam Heroine còn lại được đựng trong bì thư tái niêm phong có chữ ký của hai bên giao nhận và dấu của phòng KTHS - Công an tỉnh Lào Cai. Bì niêm phong có ghi: “Vật chứng cũn lại sau trớch mẫu giỏm định thu giữ của Lờ Tuấn M ngày 15/12/2020 tại tổ 13, phường P, thành phố Lào Cai”; 0,11 (khụng phẩy mười một) gam Heroine còn lại được đựng trong bì thư tái niêm phong có chữ ký của hai bên giao nhận và dấu của phòng KTHS - Công an tỉnh Lào Cai. Bì niêm phong có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu giữ khi khám xét chỗ ở của Đào Xuân T ngày 15/12/2020 tại tổ 12, phường P, thành phố Lào Cai” và 05 mảnh giấy bạc; 05 mảnh ni lon màu đen của bị cáo Đào Xuân T.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 100.000đồng của bị cáo Đào Xuân T do phạm tội mà có.

Tạm giữ số tiền 200.000đồng trong số tiền 1.100.000đồng thu giữ của bị cáo Đào Xuân T để đảm bảo thi hành án. Số tiền còn lại 900.000 đồng trả lại cho bị cáo Đào Xuân T.

Tạm giữ 01điện thoại di động hiệu Huawei màu đen có số IMEI: 867273030580828 (đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ) của bị cáo Lê Tuấn M để đảm bảo thi hành án.

Trả lại cho bị cáo Đào Xuân T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia có số IMEI 357338086283739 (đã qua sử dụng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Asus có IMEI 358409082620361 (đã qua sử dụng, màn hình bị vỡ).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án thành phố Lào Cai ngày 09/4/2021).

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 - Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị Quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Toà án. Buộc các bị cáo Lờ Tuấn M; Đào Xuân T mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghỡn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

123
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ và mua bán trái phép chất ma túy  

Số hiệu:37/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về