Bản án 37/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 37/2021/HS-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:22/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 13/2021/HSST-QĐ ngày 21 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Đặng Hoàng T, sinh năm 1979 tại tỉnh Hậu Giang; nơi đăng ký thường trú: Ấp C, xã T, huyện P, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn:00/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Kim O; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 08/01/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

Bị cáo đang chấp hành án; có mặt.

Bị hại:

1. Ông Nguyễn Văn T1, sinh năm 1973; địa chỉ: Xã B, huyện B1, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

2. Ông Trần Văn T2, sinh năm 1981; địa chỉ: Xã B, huyện B1, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Doãn Ngọc Thành D, sinh năm 1972; địa chỉ: Số 43/4, khu phố 1, thị trấn Phước Vĩnh, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

2. Ông Phạm Văn B, sinh năm 1981; địa chỉ: Nông trường Sông Đốc, thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; vắng mặt.

3. Ông Vũ Đức T, sinh năm 1975; địa chỉ: Thôn Nhân Xá, xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

4. Ủy ban nhân dân xã B, huyện B1, tỉnh Bình Dương. địa chỉ: Ấp M, xã B, huyện B1, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Hoàng T; Doãn Ngọc Thành D; Phạm Văn B; Mai Văn T, và 02 đối tượng tên thường gọi là Phong Lùn và Tèo (không rõ Lai lịch) là bạn bè quen biết nhau ngoài xã hội.

Khoảng 00 giờ 00 ngày 04/04/2006, Doãn Ngọc Thành D rủ Phạm Văn B, Đặng Hoàng T, Mai Văn T, Phong Lùn và Tèo đi tìm tài sản để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài thì tất cả đồng ý. Thực hiện ý định trên, 06 người đi bằng 03 xe mô tô biển số 61F8-4519 của B, xe mô tô biển số 95FA-0692 của T và 01 xe mô tô của T (không rõ biển số) đi từ phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đi về hướng huyện Tân Uyên (nay là huyện Bắc Tân Uyên). Khi đi ngang qua Ủy ban nhân dân xã Bình Mỹ, huyện Tân Uyên (nay là huyện Bắc Tân Uyên), tỉnh Bình Dương thì D phát hiện xe mô tô của lực lượng Công an xã để ở khu nhà tập thể không có người trong coi nên tất cả vòng xe quay lại, dừng xe cách Ủy ban nhân dân xã Bình Mỹ khoảng 20 mét. B, T, Tèo đứng ngoài giữ xe và canh chừng người để D, T, Phong dùng kìm cắt lưới rào B40 đi vào bên trong lấy xe mô tô biển số 61H2-9880 và xe mô tô biển số 61H5-5508 của anh Nguyễn Văn T1 và của anh Trần Văn T2 đẩy ra ngoài dùng đoản sắt bẻ khoá nổ máy xe sau đó giao xe cho T và Phong đưa về cho Vũ Đức T đem đi tiêu thụ. Trên đường đi về D phát hiện bị rơi mất bóp nên mượn xe của T đi tìm, còn T đi về trước. Sau đó D cùng đồng bọn tiếp tục trộm cắp 01 xe mô tô trong Ủy ban nhân dân xã Hoà Lợi, huyện Bến Cát (nay là thị xã Bến Cát), tỉnh Bình Dương thì bị bắt cùng vật chứng.

Ngày 30 tháng 11 năm 2006 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyên Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (nay là huyện Băc Tân Uyên) khởi tố vụ án. Đến ngày 30/10/2007, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyên Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (nay là huyện Băc Tân Uyên) khởi tố bị can đối với Đặng Hoàng T về tội Trộm cắp tài sản. Đặng Hoàng T bỏ trốn đến ngày 04/9/2020 ra đầu thú tại Công an xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.

Tại Kết luận Định giá tài sản số: 02 ngày 29/05/2007 của Hội đồng định giá tài sản huyện Tân Uyên (nay là huyện Bắc Tân Uyên), tỉnh Bình Dương xác định:

- Xe mô tô biển số 61H2-9880 vào thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 3.000.000đ (ba triệu đồng) - Xe mô tô biển số 61H5-5508 vào thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 3.600.000đ (ba triệu sáu trăm ngàn đồng) Tông gia tri thiêt hai tai san la 6.600.000 đông (Sau triêu sau trăm nghìn đông).

Do vậy, Cáo trạng số: 24/CT – VKS - BTU ngày 06 tháng 4 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Đặng Hoàng T về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Đặng Hoàng T mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Tổng hợp với Tổng hợp hình phạt với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 08/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt bị cáo Đặng Hoàng T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/9/2020.

Tổng hình phạt bị cáo Đặng Hoàng T phải chấp hành từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Không.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trong bản cáo trạng đã nêu và nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội thì Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực thi hành nhưng do các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 về tội trộm cắp tài sản có lợi hơn Bộ luật Hình sự năm 1999. Vì thế, Hội đồng xét xử căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xét xét áp dụng các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo.

[3] Tại phiên tòa, bị hại ông Nguyễn Văn T1 và ông Trần Văn T2 có đơn xin giải quyết vắng mặt; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Doãn Ngọc Thành D, Phạm Văn B, Vũ Đức T, đại diện Ủy ban nhân dân xã B vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt những người trên.

[4] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Khoảng 00 giờ ngày 04/4/2006, Đặng Hoàng T cùng đồng bọn lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của Nguyễn Văn T1 và ông Trần Văn T2 chiếm đoạt 02 xe mô tô biển số 61H2-9880 và mô tô biển số 61H5-5508. Tổng giá trị tài sản là 6.600.000 đồng. Hành vi của bị cáo Đặng Hoàng T đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Như vậy, Cáo trạng số 24/CT – VKS - BTU ngày 06 tháng 4 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[5] Tội phạm do bị cáo thực hiện là ít nghiêm trọng và trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[8] Về nhân thân: Ngày 08/01/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.

[9] Bị cáo có nhân thân xấu và sau khi thực hiện tội phạm bị cáo đã có hành vi cố tình lẩn trốn, gây trở ngại cho quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian đủ dài mới đủ sức giáo dục, răn đe đối với bị cáo.

[10] Về trách nhiệm dân sự:

Các bị hại ông Nguyễn Văn T1 và ông Trần Văn T2 không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Ủy ban nhân dân xã Bình Mỹ không có yêu cầu bồi thường đối với hàng rào B40 bị các đối tượng trong vụ án cắt nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[11] Vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, không có sự phân công vai trò cụ thể, không có sự câu kết chặt chẽ nên không xem là phạm tội có tổ chức. Trong đó, bị cáo T tham gia với vai trò là người giúp sức nên mức hình phạt sẽ nhẹ hơn các đối tượng có vai trò là người thực hành.

[12] Đối với các đối tượng Doãn Ngọc Thành D, Phạm Văn B và Vũ Đức T đã bị Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử theo Bản án số 109/2008/HSST ngày 05/9/2008 nên không đặt ra xem xét.

[13] Đối với các đối tượng Mai Văn T3, Phong Lùn và Tèo không rõ nhân thân lai lịch nên cần tiếp tục điều tra làm rõ, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

[14] Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Không.

[15] Bị cáo đang chấp hành Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 08/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương nên cần phải tổng hợp hình phạt đối với bị cáo Đặng Hoàng T theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[16] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. [17] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 3 Điều 7; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56; Điều 58; khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ khoản 2 Điều 136, Điều 260, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội khóa 14 về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13.

1. Về tội danh và hình phạt: Về tội danh:

- Tuyên bố bị cáo Đặng Hoàng T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Đặng Hoàng T 01 (Một) năm tù.

Tổng hợp hình phạt với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 08/01/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt bị cáo Đặng Hoàng T 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/9/2020.

Tổng hình phạt bị cáo Đặng Hoàng T phải chấp hành: 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/9/2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.

3. Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Không.

4. Án phí sơ thẩm: Bị cáo Đặng Hoàng T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có mặt được quyên khang cao bản án trong han 15 (Mười lăm) ngay, kê tư ngay tuyên an. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

359
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2021/HS-ST ngày 15/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:37/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về