Bản án 37/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LIÊN CHIỂU - TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 37/2021/HS-ST NGÀY 01/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Liên Chiểu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 36/2021/HSST ngày 16 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Trần Bình Q – Sinh năm: 1985. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Phòng x nhà x, Khu chung cư xx, phường HM, quận LC, Tp ĐN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 3/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Đ và bà Trần Thị Bích V; Gia đình có 05 anh em, bị cáo là con đầu;

Tiền án: Năm 2004, bị Tòa phúc thẩm-Tòa án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 19 năm 6 tháng tù giam về tội Giết người và tội gây rối trật tự công cộng. Ngày 17/11/2020, chấp hành xong.

Tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03.02.2021, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Chị Bùi Thị Hạnh N- Sinh năm: 1995; Địa chỉ: Số 01 Hòa Minh 6, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, vng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 15h30 ngày 24/01/2021, Nguyễn Trần Bình Q lén lút đi vào nhà chị Bùi Thị Hạnh N, tại số xx Hòa Minh x, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng thì phát hiện 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus đang xạc pin bên phải cửa nhà vệ sinh, nên Q rút dây sạc, lấy trộm điện thoại di động Iphone 6 Plus, màu trắng, số imei: 356997062403131 có gắn thẻ sim số thuê bao: 0708186167 rồi nhanh chóng đi ra khỏi nhà chị N về hướng đường Nguyễn Tất Thành.

Đến khoảng 2h45 ngày 25/01/2021, Q đi bộ trên tuyến đường Điện Biên Phủ, thành phố Đà Nẵng thì bị tổ tuần tra 8394 Công an phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng kiểm tra hành chính, phát hiện Q không biết mật khẩu của điện thoại iphone 6 plus mà Q trộm cắp được của chị Ni nên đã mời Quý về cơ quan công an làm việc. Tại cơ quan công an, Q khai nhận hành vi trộm cắp điện thoại di động trên nên Công an phường Thanh Khê Đông bàn giao cho Công an phường Hòa Minh, quận liên Chiểu xử lý.

Theo Kết luận giá trị của điện thoại di động Iphone 6 plus là: 2.280.000 đồng.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) điện thoại di động, hiệu iphone 6 plus, màu trắng, số imei: 356997062403131 và thẻ sim số thuê bao: 0708186167.

- 01 (một) điện thoại di động, hiệu iphone 6, màu trắng (do máy không lên nguồn nên không kiểm tra được số imei của máy).

- 01 (một) điện thoại di động bàn phím màu đen – đỏ, hãng Masstel, số imei 1: 355121091167044; số imei2: 355121091167051 và 01 thẻ sim số thuê bao: 0905.469.221.

- 01 (một) điện thoại di động bàn phím màu đen, hãng itel, số imei 1: 352019114144667; số imei2: 352019114144675.

Tại bản cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 15/4/2021 của VKSND quận Liên Chiểu đã truy tố bị cáo Nguyễn Trần Bình Quý về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” như bản cáo trạng số 35/CT- VKS ngày 15/4/2021 của VKSND quận Liên Chiểu. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 12-15 tháng tù;

Và tuyên trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động, hiệu iphone 6, màu trắng và 01 điện thoại di động bàn phím màu đen, hãng itel, số imei 1: 352019114144667; số imei2: 352019114144675.

Tại phần tranh luận, bị cáo Nguyễn Trần Bình Q thống nhất về tội danh mà VKSDN quận Liên Chiểu đã truy tố đối với bị cáo, về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ đúng pháp luật; và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:

Khong 15h30 ngày 24/01/2021, tại số nhà xx Hòa Minh x, phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng, bị cáo Nguyễn Trần Bình Q đã có hành vi lén lút trộm của chị Bùi Thị Hạnh N 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus, màu trắng, số imei: 356997062403131 có gắn thẻ sim số thuê bao: 0708186167, trị giá 2.280.000 đồng.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015. Như bản cáo trạng số 35/CT-VKS ngày 15/4/2021của Viện kiểm sát nhân dân quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng đã truy tố bị cáo là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy:

Hành vi phạm tội trên đây của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bằng thủ đoạn đi dạo trên các tuyến đường xem tài sản không có người trông coi, bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội giữa ban ngày và ngay trong khu dân cư đông người, thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

HĐXX xét thấy bị cáo có nhân thân xấu, năm 2004, đã bị Tòa phúc thẩm - Tòa án nhân dân Tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 19 năm 6 tháng tù giam về tội Giết người và tội gây rối trật tự công cộng, ngày 17/11/2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù thì đến ngày 24/01/2021 bị cáo lại tiếp tục phạm tội mới khi chưa được xóa án tích; Ngoài ra, ngày 29/3/2021 bị cáo cũng bị Công an quận Hải Châu, Tp Đà Nẵng xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản xẫy ra tại đường Ngô Gia Tự, Tp Đà Nẵng, điều đó cho thấy bị cáo không biết tự tu chí, rèn luyện bản thân, để trở thành công dân có ích cho xã hội mà liên tục có hành vi vi phạm pháp luật. Lần phạm tội này của bị cáo là thuộc trường hợp tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Do vậy, việc xét xử bị cáo đưa ra mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là cần thiết, HĐXX tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo như đề nghị của đại diện VKS tại phiên tòa là phù hợp.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; Giá trị tài sản không lớn và tài sản đã thu hồi trả cho người bị hại; Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, HĐXX áp dụng cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[4]. Về xử lý vật chứng:

- Ngày 08/02/2021, Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiêu ra Quyết định xử lý vật chứng: Trả lại cho chị Bùi Thị Hạnh N 01 điện thoại di động, hiệu iphone 6 plus, màu trắng, số imei: 356997062403131 và thẻ sim số thuê bao: 0708186167.

- Ngày 15/3/2021, Cơ quan CSĐT Công an quận Liên Chiêu ra Quyết định xử lý vật chứng: Trả lại cho chủ sở hữu là bà Trần Thị Bích V (mẹ bị cáo) 01 điện thoại di động bàn phím màu đen–đỏ, hãng Masstel, số imei 1: 355121091167044; số imei2: 355121091167051 và 01 thẻ sim số thuê bao: 0905.469.221.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động, hiệu iphone 6, màu trắng và 01 (một) điện thoại di động bàn phím màu đen, hãng itel, số imei 1: 352019114144667; số imei2: 352019114144675, là tài sản của Q nên HĐXX tuyên trả lại cho bị cáo.

[5]. Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên HĐXX không xem xét.

[6]. Về án phí: Theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án thì bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí HSST.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

I. Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Trần Bình Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Trần Bình Q 01 (một) năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03.02.2021.

II. Xử lý vất chứng : Áp dụng : Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tuyên trả cho bị cáo Nguyễn Trần Bình Q: 01 điện thoại di động, hiệu iphone 6, màu trắng và 01 điện thoại di động bàn phím màu đen, hãng itel, số imei 1: 352019114144667; số imei2: 352019114144675.

(Vật chứng đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Liên Chiểu, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/5/2021).

III. Về án phí HSST: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án. Bị cáo phải nộp số tiền 200.000đ.

IV. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người bị hại, vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2021/HS-ST ngày 01/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:37/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Liên Chiểu - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về