Bản án 37/2021/HNGĐ-ST ngày 27/04/2021 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 37/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ LY HÔN

 Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại phòng xử án, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 138/2020/HNGĐ – TLST ngày 16 tháng 12 năm 2020 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 138/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24/02/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: anh Đinh Thế H; sinh năm 198* Địa chỉ: tổ dân phố *, thị trấn Q, huyện M, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

2. Bị đơn: chị Đinh Thị T; sinh năm 198* Địa chỉ: thôn T, xã H, huyện M, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt lần thứ 2.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 15/12/2020 và trong bản tự khai cũng như tại quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Đinh Thế H trình bày:

- về hôn nhân: anh và chị T kết hôn năm 2010 tại UBND xã Hóa Sơn, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc. Thời gian đầu hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, được một thời gian thì có mâu thuẫn lý do là anh H đi xuất khẩu lao động ở nước Hàn Quốc thì phát hiện chị T ngoại tình, thường xuyên bỏ nhà, bỏ con đi chơi, mặc dù hai bên gia đình đã hòa giải nhưng vẫn không giải quyết được vấn đề, hai vợ chồng cũng đã sống ly thân, cuối năm 2017 chị T bỏ nhà đi, anh không biết tin tức và cũng từ năm 2017 hai vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nhận thấy cuộc sống vợ chồng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh làm đơn yêu cầu được ly hôn với chị T.

- con chung của vợ chồng: hai vợ chồng có 02 con chung là cháu Đinh Nữ Ngọc B, sinh ngày 14/11/2012 và Đinh Hoàng Anh V, sinh ngày 24/04/2015, hiện tại con đang ở với anh H, nguyện vọng của anh H là xin được nuôi con và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung.

- tài sản chung và nợ chung: không có.

Tại bản tự khai ngày 15/01/2021, cháu Đinh Nữ Ngọc B có nguyện vọng xin được ở với anh Đinh Thế H.

Ngày 19/02/2021, Tòa án xác minh việc vắng mặt của chị Đinh Thị T tại Công an xã Hóa Sơn được biết chị Đinh Thị T có hộ khẩu thường trú tại thôn Tăng Hóa, xã Hóa Sơn, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, hiện không có mặt tại địa phương. Tòa án cũng tiến hành xác minh tại nhà của ông Đinh Minh Đ – là bố đẻ của chị T được biết chị T thường xuyên về nhà của ông để ở, ông Đ cũng cam kết là nếu có giấy triệu tập hoặc các giấy tờ của Tòa án sẽ liên gửi cho chị T thì ông sẽ liên lạc để thông báo cho chị T biết.

Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử và giấy triệu tập, thông báo mở lại phiên tòa tại UBND xã Hóa Sơn.

Bị đơn chị Đinh Thị T không có ý kiến bằng văn bản theo thông báo thụ lý của Tòa án, cũng không đến Tòa án theo giấy triệu tập, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm và thông báo mở lại phiên tòa của Tòa án. Tòa án đã tống đạt, niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định tại Điều 173 và Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chị T không đến Tòa án để giải quyết vụ án thể hiện thái độ không hợp tác với Tòa án nên căn cứ Bộ luật Tố tụng dân sự giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Ngày 11/3/2021, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm ly hôn đối với anh H và chị T. Mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng chị T vẫn vắng mặt nên Toà án đã hoãn phiên toà với lý do vắng mặt bị đơn.

Tại phiên tòa:

Anh Đinh Thế H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị T. Về con chung: nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng hai con là Đinh Nữ Ngọc B và Đinh Hoàng Anh V, không yêu cầu chị T đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản chung và nợ chung: không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

- về tố tụng: từ khi thụ lý vụ án đến khi Hội đồng xét xử vào nghị án thì Thẩm phán xác định về thẩm quyền, quan hệ pháp luật, tư cách đương sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đúng quy định của pháp luật và thời hạn gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cũng đảm bảo. Tại phiên toà Hội đồng xét xử, thư ký cũng chấp hành đúng theo quy định của pháp luật. Đối với nguyên đơn đã chấp hành đúng theo quy định tại các Điều 68, 70, 71 và Điều 234 của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật.

- về nội dung: về hôn nhân: cho ly hôn giữa anh Đinh Thế H và chị Đinh Thị T; về con chung: giao hai con chung là Đinh Nữ Ngọc B và Đinh Hoàng Anh V cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, do anh H không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung nên không xét; tài sản chung, nợ chung: không có nên không xem xét; anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: anh H yêu cầu giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con với chị T, tranh chấp trong vụ án là quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình, bị đơn cư trú tại thôn Tăng Hóa, xã Hóa Sơn, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình, căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa.

Bị đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai vẫn vắng mặt, nguyên đơn đồng ý xét xử vắng mặt bị đơn, căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: anh H và chị T kết hôn với nhau vào năm 2010 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc và được UBND xã Hóa Sơn, huyện Minh Hóa, tỉnh Quảng Bình cấp giấy chứng nhận kết hôn vì vậy đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.

[3]. Xét yêu cầu ly hôn của anh Huynh: vợ chồng anh H và chị T không còn yêu thương, quý trọng, quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ lẫn nhau nữa thể hiện qua bản tự khai, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa. Hai vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng trong cuộc sống, hai vợ chồng cũng đã sống ly thân từ cuối năm 2017. Tòa án xét thấy tình trạng hôn nhân của anh H và chị T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của anh H là có căn cứ phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4]. Về con chung: hai vợ chồng có 02 con chung cháu Đinh Nữ Ngọc B, sinh ngày 14/11/2012 và Đinh Hoàng Anh V, sinh ngày 24/04/2015. Hội đồng xét xử xét thấy: hiện tại hai con đang ở anh H, cháu B có nguyện vọng được ở với bố, anh H cũng có nguyện vọng xin được nuôi dưỡng hai con, xuất phát từ quyền lợi về mọi mặt của hai con cần giao cháu B, V cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng là hợp lý, đúng quy định của pháp luật, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Do anh H không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của đương sự tạm thời không yêu cầu cấp dưỡng.

[5]. Về tài sản chung và các khoản vay nợ chung: không có nên Hội đồng xét xử không xét.

Chị Đinh Thị T vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của chị về tài sản chung, nợ chung. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vấn đề tài sản chung, nợ chung theo chứng cứ và yêu cầu của anh H. Trường hợp các đương sự có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

[6]. Chị Đinh Thị T được Tòa án triệu tập đến để ghi nhận ý kiến, tiến hành thủ tục giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như việc tham gia phiên tòa xét xử giải quyết vụ án với nguyên đơn nhưng vẫn vắng mặt. Vì vậy, chị T đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình, phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu khởi kiện, lời trình bày cũng như chứng cứ do nguyên đơn cung cấp để làm cơ sở xem xét giải quyết vụ án.

[7]. Về án phí: theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, anh H phải chịu án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57 và Điều 58 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: cho ly hôn giữa anh Đinh Thế H và chị Đinh Thị T.

2. Về con chung: giao hai con chung là cháu Đinh Nữ Ngọc B, sinh ngày 14/11/2012 và Đinh Hoàng Anh V, sinh ngày 24/04/2015 cho anh Đinh Thế H trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh H không yêu cầu chị T đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của đương sự tạm thời không yêu cầu cấp dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom đển cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con thì cha, mẹ trực tiếp nuôi con, cha, mẹ không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về chia tài sản chung và nợ chung: không có nên Tòa không xét.

4. Về án phí: anh Đinh Thế H phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm ly hôn nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số:

0004391 ngày 16/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình.

5. Quyền kháng cáo: đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (27/4/2021). Đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2021/HNGĐ-ST ngày 27/04/2021 về ly hôn

Số hiệu:37/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về