TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 37/2020/HS-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự (án trọng điểm) thụ lý số: 39/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 15/QĐHPTST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Thế M, sinh năm 1990; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn CC, xã QS, huyện LN, tỉnh BG; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ hoc vân : 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1962 và bà Lại Thị T, sinh năm 1970. Gia đình có 2 anh em, bị cáo là thứ nhất; Tiền sự: Không.
Tiền án: Bản án số 79/2019/HSST ngày 06/8/2019, Tòa án nhân dân huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội xử phạt 8 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/01/2020.
Nhân thân: Tại Bản án số 59/2014/HSST ngày 02/7/2014, Tòa án nhân dân huyện LN, tỉnh BG xử phạt 24 tháng tù về tội trộm cắp tài sản và 12 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành 36 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 15/02/2014. Buộc bị cáo phải bồi thường cho những người bị hại tổng số tiền 4.200.000đ; chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 210.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù và bồi thường và án phí.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/6/2020 đến ngày 16/6/2020 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương. Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thế M: Bà Nguyễn Thị Ư – Trợ giúp viên pháp lý thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hải Dương; Địa chỉ: Số 113 Trần Hưng Đạo, TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương.
Người chứng kiến: Chị Nguyễn Thị Hải Y, sinh năm 1995 Trú tại: Thôn TP, xã ĐL, huyện NS, tỉnh HD.
Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chiều ngày 15/6/2020, Nguyễn Thế M một mình bắt xe bus từ khu vực xã Thanh Quang, huyện Nam Sách đến khu vực thành phố Hải Dương mục đích tìm mua ma túy để sử dụng. Khi đi đến khu vực chân cầu Phú Lương, thành phố Hải Dương, Mạnh xuống xe gặp một nam thanh niên. Qua tiếp xúc và nói chuyện, Mạnh hỏi người này có biết chỗ nào bán ma túy không để Mạnh mua về sử dụng. Do người thanh niên trên có sẵn ma túy trong người nên đã rủ Mạnh ra khu vực phía sau siêu thị Big C Hải Dương để cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy, Mạnh đồng ý. Khoảng 18h30’ cùng ngày, nam thanh niên này rủ Mạnh về khu vực huyện Nam Sách lấy thêm ma túy mục đích để sử dụng. Sau đó, Mạnh cùng thanh niên trên bắt xe bus về khu vực Miếu Lãng, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách thì xuống xe. Người này bảo Mạnh đứng chờ còn người thanh niên này đi vào đường thôn Miếu Lãng. Một lúc sau quay lại mang theo một vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng đút vào túi quần đùi bên phải Mạnh đang mặc và bảo Mạnh đứng chờ. Đến 19h15’ cùng ngày, khi Mạnh đang chờ người thanh niên trên quay lại thì bị lực lượng công an huyện Nam Sách kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ trong túi quần đùi bên phải của Mạnh 01 vỏ bao thuốc lá màu vàng, nhãn hiệu Thăng Long, bên trong có 02 gói giấy gập hình chữ nhật cùng kích thước 2x1cm, chứa tinh thể màu trắng.
Tại Kết luận giám định số 273/KLGĐ-PC09 ngày 16/6/2020 xác định : Chất rắn (dạng tinh thể) màu trắng ghi thu của Nguyễn Thế M niêm phong gửi đến giám định có khối lượng 0,112 gam là ma túy loại Heroin. Heroin là chất nằm trong danh mục I, STT: 09, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.
Về vật chứng: Đối với 0,087 gam Heroin hoàn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì thư niêm phong số 273/KLGĐ-PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương (theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách và Chi cục thi hành án huyện Nam Sách) Tại Cáo trạng số 36/CT-VKS-NS ngày 30/7/2020, Viện kiểm sát nhân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương truy tố Nguyễn Thế M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách giữ nguyên quan điểm như đã truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy"; Về hình phạt: căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự, đề nghị: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế M từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ 15/6/2020; Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng; Về vật chứng: căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,087 gam Heroin hoàn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng; Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo M.
Người bào chữa cho bị cáo M xác định: Hành vi phạm tội của bị cáo là đúng với quy định của pháp luật và đồng ý với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo M. Mặc dù, bị cáo có nhân thân xấu, đã bị kết án đến nay chưa được xóa án tích tuy nhiên tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo từ 13 đến 15 tháng tù để bị cáo có điều kiện sớm trở về với gia đình và xã hội. Bị cáo thuộc hộ nghèo, hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, bị cáo cũng thuộc đối tượng miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách đối đáp với ý kiến của người bào chữa: Giữ nguyên quan điểm đề nghị mức hình phạt từ 15 đến 18 tháng tù vì bị cáo M là người có nhân thân xấu, có 01 tiền án chưa được xóa án tích và hiện tại bị cáo M đang bị cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện LN, tỉnh BG khởi tố về hành vi trộm cắp tài sản.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Sách, Điều tra viên, VKSND huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Thế M tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 19h15’ ngày 15/6/2020, tại đường thôn Miếu Lãng, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Nguyễn Thế M có hành vi cất giấu trái phép trong túi quần đùi bên phải đang mặc 02 gói ma túy khối lượng 0,112 gam, loại Heroin mục đích sử dụng cho bản thân, bị Công an huyện Nam Sách phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội được pháp luật bảo vệ. Chất ma túy có tính kích thích thần kinh, có tác hại rất lớn đến sức khỏe của con người cũng như toàn xã hội. Hành vi tàng trữ ma túy để sử dụng còn là một tệ nạn xã hội và là nguyên nhân dẫn đến căn bệnh thế kỷ HIV – AIDS.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Xét bị cáo là người có nhân thân xấu đã hai lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng bị cáo không lấy đó là bài học kinh nghiệm cho bản thân mà còn tiếp tục phạm tội. Ngoài ra, bị cáo hiện đang bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện LN, tỉnh BG ra quyết định khởi tố vụ án hình sự về hành vi Trộm cắp tài sản tại huyện LN, như vậy thể hiện bị cáo coi thường pháp luật do đó, cần áp dụng một hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng lại thuộc hộ nghèo giai đoạn 2019-2020 nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng: Đối với 0,087 gam Heroin hoàn lại sau giám định là vật cấm lưu hành và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng bị cáo sử dụng cất giấu ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[8] Về án phí: Miễn án phí cho bị cáo M vì bị cáo thuộc hộ nghèo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[9] Đối với người thanh niên cùng Mạnh sử dụng ma túy và đưa ma túy cho Mạnh như Mạnh khai không xác định được nên không có căn cứ xử lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế M phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế M 15 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 15/6/2020 3. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu tiêu hủy 0,087 gam Heroin hoàn lại sau giám định và 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Thăng Long màu vàng đựng trong 01 phong bì thư số 273/KLGĐ-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nam Sách) 4. Về án phí: Miễn án phí sơ thẩm hình sự cho bị cáo Nguyễn Thế M.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.
Bản án 37/2020/HS-ST ngày 31/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 37/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nam Sách - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về