Bản án 37/2020/HS-ST ngày 05/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 37/2020/HS-ST NGÀY 05/06/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Điện Biên đã tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020, Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2020/HSST-QĐ ngày 19 tháng 05 năm 2020 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 20/TB-HS ngày 25 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Lò Văn P (tên gọi khác: Không), sinh năm 1975 tại tỉnh Điện Biên. Nơi cư trú: Bản L, xã X, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 03/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn T sinh năm 1952 và bà Bạc Thị X sinh năm 1952; có vợ Lò Thị H sinh năm 1975 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1997, con nhỏnhất sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không;nhân thân: Chưa bị kết án và chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/12/2019 đến ngày 12/12/2020 tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Điện Biên cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn P do Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên cử: Bà Nguyễn Thị Thu H, Trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước, tỉnh Điện Biên (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn P do gia đình bị cáo mời: Ông Nguyễn Việt C, Luật sư Hãng Luật Lê Hồng Hiển và Cộng sự thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 09/12/2019, Lò Văn P nhận được điện thoại của T ở Điện Biên đặt vấn đề mua 02 bánh Heroine với giá là 110 triệu đồng/01 bánh và 15 túi Methamphetamine với giá là 03 triệu đồng/01 túi. Thống nhất xong, P gọi điện cho D ở xã F, huyện Đ, tỉnh Điện Biên thỏa thuận mua nợ 02 bánh Heroine với giá 105 triệu đồng/01 bánh và 15 túi Methamphetamine với giá 2,5 triệu đồng/01 túi. Đến sáng ngày 10/12/2019, P nhận điện thoại của T bảo đang xuống huyện A để mua ma túy, nên P gọi điện cho D mang ma túy xuống bản K, xã X, huyện A cho P. Sau đó, P lấy xe máy nhãn hiệu YAMAHA – Exciter của con trai là Lò Văn N điều khiển đến địa điểm hẹn nhận 02 bánh Heroine và 15 túi Methamphetamine từ D và hẹn khi nào bán xong sẽ trả tiền cho D. P mang số ma túy trên ra khu vực bản C, xã E, huyện A, tỉnh Điện Biên để bán. Khoảng 13 giờ hơn cùng ngày, P đang trao đổi mua bán ma túy với T và 01 người đi cùng T tên là X, thì bị tổ công tác Công an tỉnh Điện Biên phát hiện bắt quả tang thu giữ của P 02 bánh Heroine có khối lượng 590 gam và 15 túi Methamphetamine có khối lượng là 285,47 gam, còn T và X bỏ chạy thoát.

Tại Bản Kết luận giám định số 07/GĐ-PC09 ngày 18/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên kết luận:

- 02 (hai) mẫu chất bột màu trắng ký hiệu B1, B2 trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn P gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

- 15 (mười lăm) mẫu viên nén màu hồng ký hiệu theo thứ tự từ M1 đến M15 trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn P gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.

- Khối lượng 02 (hai) bánh chất bột màu trắng thu giữ của Lò Văn P là 590 gam.

- Khối lượng số viên nén màu hồng thu giữ của Lò Văn P là 285,47 gam.

- Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 9, Mục IA, Danh mục I, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

- Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

Bản Cáo trạng số 30/CT-VKS-P1 ngày 21/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên truy tố ra trước Toà án nhân dân tỉnh Điện Biên để xét xử bị cáo Lò Văn P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn P tù chung thân về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn P.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và bản luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng bị cáo Lò Văn P đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Những người bào chữa cho bị cáo Lò Văn P không có ý kiến tranh luận gì về tội danh, điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên đã truy tố và bản luận tội của Kiểm sát viên. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến điều kiện sinh sống của bị cáo Lò Văn P: Bị cáo do hiểu biết pháp luật còn nhiều hạn chế, trình độ văn hóa thấp, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội. Riêng Luật sư Nguyễn Việt C cho rằng bị cáo Lò Văn P đã tích cực giúp cơ quan điều tra trong việc điều tra các vụ án khác và bị cáo phạm tội do lạc hậu nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm m, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo để xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bịcáo:Lời khai của bị cáo Lò Văn P trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang; kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định:

Sáng ngày 09/12/2019, Lò Văn P nhận được điện thoại của T ở Điện Biên đặt vấn đề mua 02 bánh Heroine với giá là 110 triệu đồng/01 bánh và 15 túi Methamphetamine với giá là 03 triệu đồng/01 túi. P gọi điện cho D ở xã F, huyện Đ, tỉnh Điện Biên thỏa thuận mua nợ 02 bánh Heroine với giá 105 triệu đồng/01 bánh và 15 túi Methamphetamine với giá 2,5 triệu đồng/01 túi. Đến sáng ngày 10/12/2019, P gọi điện cho D mang ma túy xuống bản K, xã X, huyện A. P nhận 02 bánh Heroine và 15 túi Methamphetamine từ D và hẹn khi nào bán xong sẽ trả tiền cho D. P mang số ma túy trên ra khu vực bản C, xã E, huyện A, tỉnh Điện Biên để bán. Khoảng 13 giờ hơn cùng ngày, trong khi P đang trao đổi mua bán ma túy với T và 01 người đi cùng tên là X, thì bị tổ công tác Công an tỉnh Điện Biên phát hiện bắt quả tang, thu giữ của P 02 bánh Heroine có khối lượng 590 gam và 15 túi Methamphetamine có khối lượng là 285,47 gam.

Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lò Văn P đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự, kết luận của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[2]Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Lò Văn P là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất an ninh trật tự tại địa phương, gây dư luận xấu trên địa bàn. Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của bị cáo Lò Văn P là đặc biệt nghiêm trọng. Nguyên nhân xuất phát từ động cơ, mục đích mua bán trái phép chất ma túy của bị cáolà do hám lời, thiếu ý thức chấp hành pháp luật.

Về tình tiết định khung hình phạt:

Bị cáo Lò Văn P đã có hành vi mua bán 285,47 gam Methamphetamine và 590 gam Heroine vớimục đích để bán kiếm lời đã cấu thành tình tiết định khung được quy định tại điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân tỉnh Điện Biên truy tố đối với bị cáo Lò Văn P về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, bị cáo không bị oan sai.Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Điện Biên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt tù không thời hạn đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, phù hợp với quy định của pháp luật, cần chấp nhận.

Đối với đề nghị của những người bào chữa về việc áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo, không áp dụng phạt bổ sung và miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo là có căn cứ, Hội đồng xét xử cần chấp nhận. Đối với đề nghị của người bào chữa về việc đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm m, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xử bị cáo ở mức thấp nhất của khung hình phạt là không có căn cứ nên không được chấp nhận.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, nghề nghiệp của bị cáo là làm ruộng, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy rằng:

Bị cáo Lò Văn P không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Điện Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân nhân tỉnh Điện Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo đúng quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, phù hợp với các quy định của pháp luật.

[6]Về vật chứng vụ án: Theo quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, số vật chứng đã thu giữ của bị cáo cần xử lý như sau:

- Đối với 277,97 gam Methamphetamine và 588,3 gam Heroine thu giữ của Lò Văn P là vật chứng của vụ án còn lại sau khi giám định, cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đồng, loại máy màn hình cảm ứng, bị cáo dùng để trao đổi mua bán ma túy nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

[7] Về án phí:Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự,điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.Do bị cáo Lò Văn P là người dân tộc thiểu số, đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế khó khănnên Hội đồng xét xử cần xem xétmiễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8] Về các vấn đề liên quan khác: Theo lời khai của bị cáo Lò Văn P thì trong vụ án còn có đối tượng tên là D nhà ở xã F, huyện Đ, tỉnh Điện Biên là người bán số ma túy cho bị cáo và các đối tượng T và X là người mua ma túy của bị cáo, do Lò Văn P không biết rõ họ tên và địa chỉ cụ thể nên cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xác minh làm rõ, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn P phạm tội“Mua bán trái phép chất ma túy”.

2.Hình phạt:Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 39 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn P tù chung thân, thời hạn tù tính từ ngày 10/12/2019.

3. Về xử lý vật chứng:Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

* Tịch thu tiêu hủy:01 (một) gói niêm phong bằng phong bì niêm phong vật chứng trong đó có chứa 277,97 gamMethamphetamine và 588,3 gam Heroine là vật chứng của vụ án còn lại sau khi giám định.

* Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước:01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu đồng, loại máy màn hình cảm ứng. Máy cũ đã qua sử dụng, bị vỡ phần vỏ bên ngoài, không kiểm tra chất lượng bên trong máy.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Điện Biên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Điện Biên ngày 21/4/2020).

4. Về án phí:Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm chobị cáo Lò Văn P.

5.Về quyền kháng cáo đối với bản án: Căn cứ các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 05/6/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2020/HS-ST ngày 05/06/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về