Bản án 37/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG – TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 37/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 26 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 78/2020/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 3 năm 2020 về việc việc yêu cầu ly hôn và nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 06 tháng 7 năm 2020 giữa:

- Nguyên đơn: Chị Huỳnh Trúc L, sinh năm 1989; Địa chỉ: ấp N, xã C, huyện V, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1986; Địa chỉ: ấp V, xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu.

(Chị L và anh A vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 28/02/2020 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Huỳnh Trúc L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Hoàng A chung sống với nhau vào năm 2009, hôn nhân là tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. Sau thời gian chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn được, vợ chồng đã ly thân với nhau từ đầu năm 2016 cho đến nay.

Về con chung: Vợ chồng có với nhau 01 người con chung tên Nguyễn Nhựt T, sinh ngày 07/7/2012 hiện chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu tiếp tục nuôi con và không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Hoàng A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần vắng mặt không có lý do.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện P trình bày quan điểm:

+ Về tố tụng: Thẩm phán, thư ký và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với đương sự: từ khi tham gia tố tụng đến nay, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình. Đối với bị đơn Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do là vi phạm nghĩa vụ của bị đơn.

+ Về nội dung: Chị L và anh A chung sống với nhau vào năm 2009, hôn nhân tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên hôn nhân của chị L và anh A là hợp pháp. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẩn và ly thân từ năm 2016 cho đến nay, Tòa án đã triệu tập hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng anh A không đến điều này chứng tỏ anh A không có thiện chí đoàn tụ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L ly hôn với anh A theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình; Về con chung: Giao người con chung là Nguyễn Nhựt T cho chị Lệ tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng do các đương sự không yêu cầu nên không xem xét; Về tài sản và nợ: Do chị L và anh A không yêu cầu nên không đặt ra xem xét; Về án phí chị L nộp theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa; sau khi nghe ý kiến phát biểu đề xuất của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Chị L yêu cầu ly hôn với anh A và anh A có địa chỉ cư trú tại ấp Vĩnh Bình B, xã Vĩnh Thanh, huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu nên căn cứ Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Phước Long, tỉnh Bạc Liêu.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay chị L có đơn xin xét xử vắng mặt và được Tòa án chấp nhận, bị đơn là anh Nguyễn Hoàng A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do, do đó căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử T hành xét xử vắng mặt chị L và anh A.

[3]. Về hôn nhA: Xét thấy, chị L và anh A chung sống với nhau vào năm 2009, hôn nhân được xây dựng cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, do vậy hôn nhân của anh, chị là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

Sau thời gian chung sống với nhau hạnh phúc thì đến năm 2016 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp nhau, bất đồng nhiều quan điểm trong cuộc sống, không thể tiếp tục chung sống cùng nhau nên đã ly thA từ năm 2016 cho đến nay, theo ý kiến của chị L và qua xác nhận của gia đình và địa phương đã thể hiện: Thực tế cuộc hôn nhân của vợ chồng chị L, anh A đã mâu thuẫn trầm trọng mà không thể hàn gắn được. Như vậy mục đích chung sống giữa chị L và anh A không đạt. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L được ly hôn với anh A.

[4]. Về con chung: Chị L và anh A có người con chung tên Nguyễn Nhựt T, sinh ngày 03/7/2012 hiện chị L đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn, chị L có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi vợ chồng sống ly thA chị L là người trực tiếp nuôi con và đã đảm bảo được cuộc sống cho con chung nên cần chấp nhận yêu cầu của chị L, giao con chung cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Anh A không trực tiếp nuôi con nhưng có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền cản trở.

[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định pháp luật, người không trực tiếp nuôi con, phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, trong vụ án này chị L là người trực tiếp nuôi con, anh A phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, tuy nhiên do các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, trường hợp sau này các bên có phát sinh tranh chấp thì được giải quyết thành vụ kiện khác.

[6]. Về tài sản chung và nợ: Chị L và anh A không yêu cầu nên không xem xét giải quyết trong vụ án này, trường hợp sau này có phát sinh tranh chấp thì được giải quyết thành vụ kiện chia tài sản sau ly hôn.

[7]. Về án phí: Buộc chị L nộp 300.000đ án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình. Chị L đã dự nộp 300.000đ tại biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004706 ngày 09/3/2020 được chuyển thu án phí.

[8]. Với những phân tích trên xét đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ và phù hợp quy định pháp luật nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhA: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Trúc L ly hôn với anh Nguyễn Hoàng A.

2. Về con chung: Tạm giao người con chung tên Nguyễn Nhựt T, sinh ngày 03/7/2012 cho chị Huỳnh Trúc L tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Hoàng A có quyền và nghĩa vụ thăm nom con không ai được cản trở.

3. Về án phí: Buộc chị Huỳnh Trúc L nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình. Chị L đã dự nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tại biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004745 ngày 16/4/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Phước Long được chuyển thu án phí.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự , người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Quyền kháng cáo: Chị Huỳnh Trúc L và anh Nguyễn Hoàng A có quyền kháng cáo bản án trọng hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung

Số hiệu:37/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về