Bản án 37/2020/HNGĐ-ST ngày 15/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 37/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 145/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2020/QĐXX-ST ngày 05 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự :

Nguyên đơn: Chị Lê Thị H - Sinh năm 1985 “ Có mặt”

Nơi ĐKHKTT: Phường T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

i ở hiện nay: Phường Q, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H - Sinh năm 1980 “ Vắng mặt”

Địa chỉ: Phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị H trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn H kết hôn với nhau vào ngày 08 tháng 5 năm 2006 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND Phường Đ, Thành phố T. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại số nhà 26/403 Hàm Nghi, phường Đông H, Thành phố T và cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do gia đình chồng và chồng không tôn trọng chị, rất nhiều lần chửi bới sĩ nhục chị dẫn đến vợ chồng thường cải vả và mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng đã sống ly thân nhau từ tháng 12/2019, thời gian ly thân chị đã thuê nhà ở riêng để mong cải thiện được tình cảm nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn xảy ra không thể hòa hợp được, và vợ chồng chị lại tiếp tục sống ly thân từ đó đến nay. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình và bạn bè khuyên giải nhiều nhưng không có kết quả. Nay chị Hương xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hải Về con: Vợ chồng có 5 con chung là cháu Nguyễn Thị Phương A sinh ngày 20/2/2007, Nguyễn Thị Phương T sinh ngày 16/10/2008, Nguyễn Thị P sinh ngày 07/5/2011, Nguyễn Thị Phương L sinh ngày 28/6/2013, Nguyễn Minh Đ sinh ngày 02/8/2017. Ly hôn chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi dưỡng cháu T và cháu Đ, giao cháu P, cháu A và cháu L cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con Về tài sản, công nợ: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn H trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn anh H đồng ý như chị H trình bày. Anh H cho rằng, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2019 có phát sinh mâu thuẫn nhưng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ trong cuộc sống, hiện nay anh H vẫn còn tình cảm với chị H và mong muốn chị H rút đơn để vợ chồng đoàn tụ nuôi dạy con cái, việc chị H làm đơn ly hôn anh H không đồng ý.

Về con: Vợ chồng có 5 con chung là cháu Nguyễn Thị Phương A, sinh ngày 20/2/2007, Nguyễn Thị Phương T sinh ngày 16/10/2008, Nguyễn Thị P sinh ngày 07/5/2011, Nguyễn Thị Phương L sinh ngày 28/6/2013, Nguyễn Minh Đ sinh ngày 02/8/2017. Nếu chị H cương quyết ly hôn anh H có nguyện vọng nuôi cả 5 cháu không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con Về tài sản, công nợ: Anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Toà án tiến hành thu thập chứng cứ. Tại biên bản thu thập chứng cứ do địa phương cung cấp thể hiện: Quá trình anh H và chị H sinh sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân cụ thể địa phương không nắm được, chỉ thấy chị H đến trình bày là chị không chịu được áp lực từ chồng và nhà chồng nữa. Nay chị H có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết.

Về con: Chị H và anh H có 05 con chung, việc giao con cho ai trực tiếp nuôi dưỡng đề nghị Tòa án căn cứ giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đại diện VKS phát biểu quan điểm giải quyết vụ án. Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của đương sự, kể từ khi toà án thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định. Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Văn H lần thứ hai nhưng anh Hải vẫn vắng mặt không có lý do. Chị H đề nghị Tòa án tiến hành xét xử, Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự để giải quyết vắng mặt anh H là phù hợp quy định của pháp luật.

[2] Về hôn nhân: Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Văn H kết hôn với nhau năm 2006 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình anh chchung sống hạnh phúc đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hòa hợp, trong cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng đã sống ly thân, chị H tha thiết xin được ly hôn.

Qua xác minh tại địa phương thể hiện hiện: Trong quá trình anh H và chị H chung sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn và hiện nay anh chị đã sống ly thân.

t mâu thuẫn giữa chị H và anh H đã đến mức trầm trọng. Do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống vợ chồng cũng khó có thể cải thiện được. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị H được ly hôn anh H là phù hợp pháp luật.

[3] Về con: Vợ chồng có 5 con chung là cháu Nguyễn Thị Phương Á, sinh ngày 20/2/2007, Nguyễn Thị Phương T sinh ngày 16/10/2008, Nguyễn Thị P sinh ngày 07/5/2011, Nguyễn Thị Phương L sinh ngày 28/6/2013, Nguyễn Minh Đ sinh ngày 02/8/2017 Ly hôn chị H đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi dưỡng cháu P và cháu Đ, giao cháu T, cháu A và cháu L cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con Anh H đề nghị nếu chị H cương quyết ly hôn anh H có nguyện vọng nuôi cả 5 cháu anh H không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con HĐXX xét thấy, cả anh H và chị H đều có mong muốn được nuôi con chung. Tuy nhiên cháu Nguyễn Minh Đ dưới 36 tháng tuổi, do cháu Đ đang còn quá nhỏ rất cần sự chăm sóc trực tiếp từ người mẹ, mặt khác tại khoản 3 điều 81 Luật HN&GĐ quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Trong trường hợp này anh H và chị H không thỏa thuận được việc nuôi con. Như vậy: để đảm bảo cuộc sống cho con dưới 36 tháng tuổi nên cần giao cháu Đ cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Cháu Nguyễn Thị P có nguyện vọng được ở với mẹ, do đó yêu cầu trực tiếp nuôi hai cháu P và cháu Đ của chị H được chấp nhận.

Về yêu cầu cấp dưỡng: Do cả chị H và anh H đều không yêu cầu cấp dưỡng. Mặt khác giao cho anh H nuôi ba cháu và giao cho chị H nuôi hai cháu, nên các bên không yêu cầu cấp dưỡng là phù hợp pháp luật nên được chấp nhận.

[4] Về tài sản và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án, chị Hương phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật..

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 56; Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án;

Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị H được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

Về con: Công nhận cháu Nguyễn Thị Phương A, sinh ngày 20/2/2007, Nguyễn Thị Phương T sinh ngày 16/10/2008, Nguyễn Thị P sinh ngày 07/5/2011, Nguyễn Thị Phương L sinh ngày 28/6/2013, Nguyễn Minh Đ sinh ngày 02/8/2017, là con chung của chị H và anh H. Giao cháu Nguyễn Thị P và cháu Nguyễn Minh Đ cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng;

Giao các cháu Nguyễn Thị Phương A, Nguyễn Thị Phương T và cháu Nguyễn Thị Phương L cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị Lê Thị H và anh Nguyễn Văn H có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản và công nợ: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Án phí: Chị Lê Thị H phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai số AA/2018/0000900 ngày 10/3/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (Chị H đã nộp đủ án phí).

Chị Lê Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Nguyễn Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2020/HNGĐ-ST ngày 15/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:37/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về