Bản án 37/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG HỒ, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 37/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Hồ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 534/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2019 về việc "tranh chấp ly hôn, nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

1/ Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ngọc P, sinh năm 1987

HKTT: số 36/3 ấp A, xã B, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

Tạm trú: ấp C, xã D, Huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

2/ Bị đơn: Anh Phạm Huỳnh Quốc N, sinh năm 1981

Địa chỉ: số 36/3 ấp A, xã B, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 09/10/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc P trình bày: Chị và anh N qua quen biết đi đến kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã B, huyện Long Hồ cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 22/8/2013. Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì vợ chồng chị phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường hay cãi nhau. Đến tháng 6/2019 Chị bỏ về nhà mẹ ruột tại ấp C, xã D, Huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long sống cho đến nay. Nay Chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Phạm Huỳnh Quốc N

Về con chung: có 02 con chung tên Phạm Huỳnh Bảo K, sinh ngày 01/5/2014 và Phạm Huỳnh Tấn P, sinh ngày 20/9/2017, hiện do anh N đang trực tiếp nuôi dưỡng, khi ly hôn chị yêu cầu giao hai con chung cho anh N tiếp tục nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: chị cam kết không có nợ chung.

- Trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành công khai chứng cứ và hòa giải đúng theo trình tự thủ tục tố tụng nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do dù đã được Tòa án tống đạt thủ tục tố tụng hợp lệ theo quy định của pháp luật và cũng không gửi bản khai ý kiến cho tòa án

* Tại phiên tòa hôm nay:

- Nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc P vẫn giữ nguyên ý kiến. Ngoài ra không cung cấp chứng cứ gì thêm.

- Bị đơn anh Phạm Huỳnh Quốc N vắng mặt không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: tại phiên tòa hôm nay anh Phạm Huỳnh Quốc N vắng mặt không lý do mặt dù đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 xét xử vắng mặt đối với đương sự trên.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị P và anh N tiến đến hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn, phù hợp quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Anh N vắng mặt tại phiên tòa nhưng xét chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của chị P thể hiện Chị và anh N đã không còn sống chung với nhau từ tháng 6/2019 đến nay. Tại Điều 19 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc; giúp đ nhau; cùng nhau chia s, thực hiện các công việc gia đình”. Chị và anh N không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau cùng chia sẻ công việc gia đình và Tại Khoản 1 Điều 56 luật hôn nhân gia đình quy định: “1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sng chung không th kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Tuy giữa Chị và anh N không có xảy ra tình trạng bạo lực gia đình và cũng không có chứng cứ để chứng minh chị hay anh N có những lời lẽ vi phạm nghiêm trọng quyền nghĩa vụ của bên còn lại nhưng tình trạng hôn nhân của anh, chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng vì anh chị không còn sống chung với nhau gần một năm nay làm cho mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị P là có cơ sở.

[3] Về con chung: có 02 con chung tên Phạm Huỳnh Bảo K, sinh ngày 01/5/2014 và Phạm Huỳnh Tấn P, sinh ngày 20/9/2017, hiện đang sống cùng anh N. Qua lời trình bày của chị P thì hiện nay hai cháu được anh N chăm sóc chu đáo về mọi mặt trong khi chị đang gặp khó khăn về kinh tế, không có điều kiện để nuôi con. Đối với cháu Phạm Huỳnh Tấn P, sinh ngày 20/9/2017 tuy chưa đủ 36 tháng tuổi nhưng chị P thống nhất để anh N trực tiếp nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị P là giao hai con chung cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở.

Về cấp dưỡng nuôi con: anh N vắng mặt tại phiên tòa và cũng không gửi bản khai ý kiến cho tòa án nên không đặt ra giải quyết.

Chị P có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp chị P lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì anh N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của chị P. Ngược lại anh N cùng các thành viên gia đình anh không được cản trở chị P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

[4] Về tài sản chung: không đặt ra giải quyết; về nợ chung: đương sự khai không có nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: chị Lê Thị Ngọc P phải chịu án phí sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật, có trừ đi tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Áp dụng các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Áp dụng khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Cho ly hôn giữa chị Lê Thị Ngọc P và anh Phạm Huỳnh Quốc N

2. Về con chung: Giao 02 con chung tên Phạm Huỳnh Bảo K, sinh ngày 01/5/2014 và Phạm Huỳnh Tấn P, sinh ngày 20/9/2017cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: không đặt ra xem xét giải quyết.

Chị P có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp chị P lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì anh N có quyên yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của chị P. Ngược lại anh N cùng các thành viên gia đình anh không được cản trở chị P trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con

3. Về tài sản chung: không đặt ra giải quyết; về nợ chung: đương sự khai không có nên không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Buộc chị Lê Thị Ngọc P nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), tiền án phí sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0005351 ngày 03/12/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:37/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Hồ - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về