Bản án 37/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG - TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 22/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 5 năm 2019 tại hội trường Uỷ ban nhân dân thị trấn Vĩnh Tường, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 27/2019/HSST ngày 16 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn M, sinh ngày 19 tháng 8 năm 1997; sinh, trú quán: Thôn T - xã C - huyện Vĩnh Tường - tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Phan Thị T; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 40/2015/HSST ngày 25/11/2015, Toà án nhân dân huyện Y xử phạt Nguyễn Văn M 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 29/12/2018 đến ngày 03/01/2019 chuyển tạm giam (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9 giờ 30 phút ngày 29/12/2018, Nguyễn Văn M đang ngồi chơi tại quán Internet nhà anh Lê Ngọc T – sinh năm 1990 ở gần khu vực ngã 5 thôn S, xã N, huyện Vĩnh Tường thì nhận được điện thoại của một người đàn ông tên S quê ở thôn Đ, xã Y, huyện Vĩnh Tường ( Theo lời khai của M). Qua điện thoại S nhờ M mua hộ 01 gói ma túy đá với giá 1.000.000 đồng, M đồng ý mua hộ ma túy cho S. Sau đó M rủ Nguyễn Văn Y- sinh năm 2002 trú tại xã N, huyện Vĩnh Tường cũng đang ngồi chơi điện tử tại quán Internet nhà anh T cùng M đi cùng. M cùng Y đi từ quán Internet ra ngã 5 thôn S, xã N, huyện Vĩnh Tường rồi M thuê một chiếc taxi (chỉ biết người đàn ông lái xe taxi đó khoảng 40 tuổi, chiếc xe taxi 05 chỗ ngồi màu trắng, còn biển số xe taxi, xe taxi thuộc hãng nào và tên, địa chỉ của người lái xe taxi như thế nào thì không biết) và bảo lái xe taxi chở M và Y đến khu vực gần quán bánh mỳ ông già ở Đ ở dệ đường Quốc lộ 2A thuộc thôn Đ, xã Y, huyện Vĩnh Tường thì gặp S đang đứng ở gần đó. M bảo lái xe dừng lại rồi một mình xuống xe, đi bộ đến gặp S. S chủ động đưa cho M số tiền là 1.000.000 đồng, M cầm tiền S đưa rồi lên xe taxi và bảo lái xe taxi chở đến gần trường cấp 2 thuộc phường T – TP.Vĩnh Yên. Khi đến nơi, M bảo lái xe taxi và Y đợi rồi một mình M đi bộ vào một ngõ nhỏ cách trường cấp 2 khoảng 50 mét thì gặp một người đàn ông không quen biết. Tại đây, M mua được của người đàn ông này 01 túi ma túy đá với giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, M cất túi ma túy đó vào túi quần rồi đi ra lên xe taxi về quán Internet nhà anh T ở gần ngã 5 – thôn S, xã N mà trước đó M và Y vừa ngồi chơi. Đến nơi, M trả tiền taxi hết 300.000 đồng rồi cùng Y đi vào quán Internet chơi tiếp. Đến khoảng gần 11 giờ cùng ngày khi M và Y đang ngồi chơi tại quán Internet thì S gọi điện thoại cho M, S hỏi M đã mua được ma túy chưa. M nói với S là đã mua được ma túy và hẹn S đến ngã 5 thôn S để đưa ma túy cho S. Sau đó M rủ Y đi cùng ra ngã 5 thôn S ( M không nói cho Y biết mục đích M đi ra ngã 5 thôn S để đưa ma túy cho S), Y đồng ý đi cùng M. Khi M vừa đi ra đến ngã 5 thôn S thì lúc đó có lực lượng Công an ập đến kiểm tra bắt quả tang M có hành vi tàng chữ trái phép chất ma túy đồng thời thu giữ, tạm giữ vật chứng theo quy định của pháp luật.

Tang vật thu giữ gồm: Thu trong túi quần bên phải phía trước Nguyễn Văn M đang mặc 01 (một) túi nilon màu trắng hình vuông, một đầu được hàn kín, một đầu có mép vuốt màu xanh, bên trong có các hạt tinh thể dạng đá, M khai nhận đây là túi ma túy đá của M. Tang vật được niêm phong vào một phong bì thư theo đúng thủ tục pháp luật, ký hiệu A1; Thu giữ trong túi quần bên trái phía trước Nguyễn Văn M đang mặc 01 ( một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đỏ đen đã qua sử dụng bên trong lắp sim thuê bao 0988.917.374.

Ngày 29/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Vĩnh Tường đã ra quyết định trưng cầu giám định tang vật thu giữ của Nguyễn Văn M đến phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc để giám định xác định khối lượng và loại ma túy trong mẫu ký hiệu A1.

Ngày 01/01/2019, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc có bản kết luận giám định số 38/KLGĐ, đã kết luận:

Tinh thể dạng đá của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong danh mục II, STT 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,4287 gam ( Không phảy bốn hai tám bảy gam, không kể bao bì). Khối lượng Methamphetamine trong 0,4287 gam mẫu gửi giám định là 0,3192 g ( Không phảy ba một chín hai gam).

Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc đã hoàn trả trực tiếp đối tượng giám định còn lại sau giám định cho Cơ quan trưng cầu gồm; 0,2749 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói được niêm phong trong một bao gói giấy “Mẫu trả” trên giáp lai có chữ ký của người giám định và hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc.

Tại bản Cáo trạng số: 32/CT-VKSVT ngày 16 tháng 4 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường - tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn M và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo M từ 18 tháng đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 29/12/2018, tại ngã 5, xóm S thuộc thôn S, xã N, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, Công an huyện Vĩnh Tường bắt quả tang Nguyễn Văn M đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ gồm: Thu trong túi quần bên phải phía trước Nguyễn Văn M đang mặc 01 (một) túi nilon màu trắng hình vuông, một đầu được hàn kín, một đầu có mép vuốt màu xanh, bên trong có các hạt tinh thể dạng đá loại Methamphetamine có khối lượng 0,4287( Không phảy bốn hai tám bảy gam, không kể bao bì). Khối lượng Methamphetamine trong 0,4287 gam mẫu gửi giám định là 0,3192 g (Không phảy ba một chín hai gam);

Hành vi của M đã đủ yếu tố để cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Do vậy, việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan.

[2]. Xét tính chất và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Ma tuý là mối hiểm hoạ cho mỗi gia đình và toàn xã hội. Methamphetamine là một chất ma tuý cực độc gây ảo giác hoang tưởng cho người sử dụng, làm huỷ hoại sức khoẻ, suy giảm giống nòi, gây suy thoái đạo đức, lối sống, nhân phẩm của con người. Ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác như trộm cắp, cướp giật, giết người…Do vậy, cần phải xử phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong tình hình hiện nay.

[3]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ, nhận thức được hành vi của mình là phạm pháp nhưng do lối sống buông thả đã thực hiện hành vi phạm tội. Bản thân bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị Toà án nhân dân huyện Y xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” song bị cáo không lấy đó làm bài học sửa đổi, hoàn lương trở về cuộc sống mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc. Tuy nhiên tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử cũng cho bị cáo được hưởng một tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng nào. Đó là căn cứ để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật và yên tâm cải tạo. Mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có căn cứ, cần chấp nhận.

[4]. Về hình phạt bổ sung, xét thấy: Bị cáo là đối tượng không có nghề nghiệp, không có thu nhập nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Trong vụ án này còn có Nguyễn Văn Y là người mà M rủ đi cùng với M đến gần trường cấp 2 thuộc phường T – TP.Vĩnh Yên để M mua ma túy và cũng là người được M rủ đi cùng ra ngã 5 thôn S để đưa ma túy cho S. Tuy nhiên M không nói cho Y biết mục đích M rủ Y đi đâu và làm gì, chỉ rủ đi cùng cho vui. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Vĩnh Tường không đặt vấn đề xử lý đối với Nguyễn Văn Y là phù hợp.

Đối với người đàn ông tên S quê ở xã Y, huyện Vĩnh Tường (Theo lời khai của Nguyễn Văn M) là người đã nhờ M mua hộ ma túy, quá trình điều tra, xác minh tại địa bàn xã Y, huyện Vĩnh Tường thì có một người tên là Nguyễn Đức S – sinh năm 1986 ở thôn Đ, xã Y. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường đã triệu tập S nhiều lần nhưng vẫn chưa làm việc được. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Vĩnh Tường tiếp tục tiến hành xác minh làm rõ khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho M ở tại một ngõ nhỏ cách trường cấp 2 thuộc phường T – TP.Vĩnh Yên khoảng 50 mét ( Theo lời khai của M). Quá trình điều tra do M không biết tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông này ở đâu. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Vĩnh Tường tiếp tục tiến hành điều tra, xác minh làm rõ khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với người đàn ông lái xe taxi chở M đi mua ma túy tại một ngõ nhỏ ở gần trường cấp II thuộc phường T, thành phố Vĩnh Yên. Quá trình điều tra chỉ biết người đàn ông lái xe taxi đó khoảng 40 tuổi, chiếc xe taxi 05 chỗ ngồi màu trắng, còn biển số xe taxi, xe taxi thuộc hãng nào và tên, địa chỉ của người lái xe taxi như thế nào thì không ai biết. Do vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xác minh đối với người lái xe taxi chở M đi mua ma túy và đi giao ma túy cho S.

Đối với số thuê bao 0988.917.374 M khai nhận đã sử dụng để liên lạc mua hộ ma túy cho S vào ngày 29/12/2018, quá trình điều tra xác định chủ số thuê bao nói trên là anh Trần Văn P – sinh năm 1998, địa chỉ: xã C, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Vĩnh Tường đã tiến hành triệu tập làm việc với P nhiều lần nhưng chưa làm việc được. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Vĩnh Tường tiếp tục tiến hành điều tra, xác minh làm rõ khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với số thuê bao 0973.146.115 (Theo lời khai của Nguyễn Văn M) là số điện thoại của S – Người đã dùng số điện thoại này để nhờ M mua hộ ma túy vào ngày 29/12/2018, quá trình điều tra xác định chủ số thuê bao là của bà Lê Thị N – sinh năm 1952, địa chỉ: thôn Đ, xã Y, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Vĩnh Tường đã triệu tập nhiều lần bà N đến làm việc nhưng chưa làm việc được. Do vậy Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Vĩnh Tường tiếp tục tiến hành xác minh làm rõ khi có căn cứ sẽ xử lý sau.

[6]. Về xử lý vật chứng: Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đỏ đen đã cũ thu giữ của Nguyễn Văn M, quá trình điều tra xác định là chiếc điện thoại của M sử dụng để liên lạc mua hộ ma túy cho người đàn ông tên S vào ngày 19/12/2018 nên cần tịch thu bán phát mại sung ngân sách Nhà nước.

Đối với mẫu vật và toàn bộ bao gói do Cơ quan giám định hoàn trả sau giám định, cần phải tịch thu tiêu hủy theo quy định của pháp luật.

[7]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn M phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự .

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 01(một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ 29/12/2018.

Về các vấn đề khác: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tịch thu, bán phát mại sung ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đỏ đen đã cũ thu giữ của Nguyễn Văn Minh Tịch thu tiêu hủy mẫu vật do cơ quan giám định hoàn trả lại sau giám định, gồm 0,2749 mẫu và toàn bộ bao gói .

(Vật chứng có đặc điểm như biên bản bàn giao vật chứng ngày 18/4/2019 của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Vĩnh Tường và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường).

Bị cáo Nguyễn Văn M phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 22/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về