Bản án 37/2019/HS-ST ngày 18/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH KHÊ - TP ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 37/2019/HS-ST NGÀY 18/05/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18.5.2019, tại Trường tiểu học Hoa Lư, phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng (Cơ sở 2), Tòa án nhân dân quận Thanh Khê xét xử sơ thẩm lưu động vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 29/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:

Đng Thanh T, tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 12.4.1991 tại tỉnh B; Nơi ĐKHKTT: Thôn Đ, xã N, thành phố H, tỉnh B; Nghề nghiệp: đầu bếp; Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đặng Văn Q (sinh năm: 1965) và bà Đinh Thị Thanh T (sinh năm: 1963); Gia đình có 02 anh em; Bị cáo là con đầu; Có vợ là bà Đỗ Thị Linh T, sinh năm 1996 và có 01 người con sinh năm 2014.

Tiền án: chưa.

Tiền sự: Ngày 07.12.2018 bị Công an phường Tam Thuận, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 29.12.2018. Hiện có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Đặng Ngọc Tuấn V, sinh năm: 1993; Nơi cư trú: Tổ 27 phường T, quận L, thành phố Đ. (Vắng mặt)

- Anh Hồ Công Trọng N, sinh năm: 1980; Nơi cư trú: Tổ 11 phường S, quận C, thành phố Đ. (Vắng mặt)

- Công ty cổ phần X. Địa chỉ: Số 277 đường T, phường B, quận C, thành phố Đ.

Người đại diện: Ông Thái Ngọc T1, sinh năm: 1962; Địa chỉ: Phó Phòng Thanh Tra pháp chế. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lúc 02 giờ 30 phút ngày 29.12.2018, tại Kiệt số 90 đường H, phường K, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang Đặng Thanh T về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tại thời điểm bắt quả tang có Đặng Ngọc Tuấn V đi cùng xe tắc xi với T nên mời về làm việc.

Tang vật, tài sản thu giữ:

+ 01 (một) gói nylon kích thước 06cm x 09cm bên trong có chứa 08 viên nén hình trụ tròn, màu cam, trên mặt của mỗi viên có in hình viên kim cương (T khai là ma túy thuốc lắc) được niêm phong, ký hiệu G1;

+ 01 (một) gói nylon kích thước 04cm x 07cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng (T khai là ma túy đá), được niêm phong, ký hiệu G2;

+ 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đen, có số Imei: 866950036801339, mang sim số: 0975.073.173 (của Đặng Thanh T);

+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, có số Imei: 354864024099054, mang sim số: 0342222205 (của Đặng Thanh T);

+ 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, có số Imei: 357659099178388, mang sim số: 0702557294 (của Đặng Ngọc Tuấn V);

+ 01 xe ôtô hiệu Toyota Vios, biển kiểm soát: 43A-307.19 (xe của hãng tắc xi V, do anh Hồ Công Trọng N điều khiển);

Quá trình điều tra xác định:

Khong 23 giờ ngày 28.12.2018, một người phụ nữ tên Sói (chưa rõ nhân thân, lai lịch) điện thoại cho Đặng Thanh T hỏi mua 08 viên ma túy thuốc lắc và “nửa hộp năm” (2,5 gam) ma túy đá, thì T đồng ý bán với giá 6.000.000 đồng (5.800.000 đồng tiền ma túy và 200.000 đồng tiền xe đi lại) và thống nhất địa điểm bán ma túy tại Kiệt 90 đường H, thành phố Đà Nẵng. T liên lạc cho một người đàn ông tên Bi (chưa rõ nhân thân lai lịch) để mua 08 viên ma túy thuốc lắc và “nửa hộp năm” ma túy đá với giá 4.600.000 đồng (350.000 đồng/01 viên ma túy thuốc lắc; 1.800.000 đồng “nửa hộp năm” ma túy đá) và hẹn giao ma túy tại khu chung cư L, thành phố Đà Nẵng. Do không đủ tiền mua ma túy nên T thuê xe tắc xi đến khách sạn S đường N để lấy số tiền 3.200.000 đồng của người phụ nữ tên Thủy (chưa rõ nhân thân, lai lịch) vay T trước đó; T tiếp tục đi tắc xi đến tượng đài M để mượn của V 1.200.000 đồng (T nói với V là để trả tiền thuê khách sạn). Sau đó T đi xe tắc xi đến Khu chung cư L mua của Bi 4.600.000 đồng được 08 viên ma túy thuốc lắc và “nửa hộp năm” ma túy đá. Sau khi mua ma túy, T đi tắc xi đến Bến xe Đà Nẵng đón và rủ V đi chơi. Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 29.12.2018 T nói xe tắc xi chở đến Kiệt 90 đường H; T xuống xe đi vào Kiệt để bán ma túy cho người phụ nữ tên Sói thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang.

Qua thử test, Đặng Thanh T và Đặng Ngọc Tuấn V dương tính với ma tuý tổng hợp.

Tại Bản kết luận giám định số 265/GĐ-MT ngày 03/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận:

Các viên nén hình trụ tròn, màu cam trong bì niêm phong có ký hiệu G1 gửi giám định là ma túy, loại MDMA, khối lượng các viên nén: 2,766 gam.

Tinh thể rắn màu trắng trong 01 gói nilon trong bì niêm phong ký hiệu G2, gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine; khối lượng tinh thể: G2: 1,327 gam”.

Tng khối lượng ma tuý Đặng Thanh T mua bán trái phép là 4,093 gam ma túy gồm: 2,766 gam ma túy loại MDMA; 1,327 gam ma túy loại Methamphetamine.

Đặng Ngọc Tuấn V không biết T mua bán trái phép chất ma túy. Xử lý tài sản:

- Đối với 01 (một) xe ôtô hiệu Toyota Vios, biển kiểm soát: 43A-307.19. Qua điều tra xác định, chủ sở hữu và đứng tên trên giấy đăng ký xe là Công ty cổ phần X, do anh Hồ Công Trọng N điều khiển. Anh N không biết hành vi phạm tội của T. Nên ngày 02.01.2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã trả lại xe ô tô nêu trên cho Công ty cổ phần X.

Vật chứng:

- Mẫu vật ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 bì niêm phong số 265/GĐ-MT ngày 03.01.2019 có đóng dấu giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, có số Imei: 354864024099054, mang sim số: 0342222205 (của Đặng Thanh T dùng để liên lạc mua bán ma túy).

Tài sản, giấy tờ thu giữ:

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu đen, có số Imei: 866950036801339, mang sim số: 0975.073.173 (của Đặng Thanh T);

- 01 điện thoại di động hiệu Itel màu đen, có số Imei: 357659099178388, mang sim số: 0702557294 (của Đặng Ngọc Tuấn V);

Hiện tất cả vật chứng và tài sản, giấy tờ trên đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Cáo trạng số 33/CT-VKSTK ngày 20 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng truy tố Đặng Thanh T về tội "Mua bán trái phép chất ma túy" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất vụ án, nhân thân, mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Thanh T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu và tiêu hủy ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì niêm phong số 265/GĐ-MT ngày 03.01.2019, có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- Trả cho Đặng Thanh T 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu đen, Imei: 866950036801339; có gắn sim: 0975073173.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, Imei: 354864024099054, có gắn sim: 0342222205 thu giữ của Đặng Thanh T.

- Trả cho Đặng Ngọc Tuấn V 01 (một) điện thoại di động Itel màu đen, Imei: 357659099178388; có gắn sim: 0702557294.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28.3.2019).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đặng Thanh T cũng đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, rất ăn năn hối hận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và vợ con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với quan điểm luận tội của Viện kiểm sát, với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và của người làm chứng, cùng các chứng cứ, tài liệu mà cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 28.12.2018, Đặng Thanh T đã mua của Bi 08 viên ma túy thuốc lắc và 2,5 gam ma túy đá với giá 4.600.000 đồng. Đến khoảng 02 giờ 30 phút ngày 29.12.2018, T thuê xe taxi đến kiệt 90 đường H, phường K, quân Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng để bán cho đối tượng tên Sói (chưa rõ nhân thân, lai lịch) 08 viên ma túy thuốc lắc và 2,5 gam ma túy đá với giá 6.000.000 đồng thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng bắt quả tang. Tổng khối lượng ma tuý bị cáo mua bán trái phép là 4,093 gam, trong đó: 2,766 gam ma túy loại MDMA và 1,327 gam ma túy loại Methamphetamine. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Mua bán trái phép chất ma tuý" theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 33/CT-VKSTK ngày 20 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Bị cáo Đặng Thanh T là người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, biết được ma túy có tác hại khôn lường làm suy đồi về đạo đức, nhân cách, làm giảm sút tinh thần, sức khỏe của con người là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm; bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn thực hiện nhằm mục đích kiếm lời nên bị cáo đã phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo đã vi phạm chính sách quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma tuý, gây khó khăn cho công tác kiểm soát chất ma tuý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ và sự phát triển lành mạnh của nòi giống, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Do đó phải xử lý nghiêm khắc để giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo là bộ đội xuất ngũ. Vì vậy, cần áp dụng tình tiết quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[6] Về xử lý vật chứng: Gồm:

- Ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì niêm phong số 265/GĐ-MT ngày 03.01.2019, có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu đen, Imei: 866950036801339; có gắn sim: 0975073173;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, Imei: 354864024099054, có gắn sim: 0342222205;

- 01 (một) điện thoại di động Itel màu đen, Imei: 357659099178388; có gắn sim: 0702557294.

Xét thấy:

- Đối với ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì niêm phong số 265/GĐ-MT ngày 03.01.2019, có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng là vật chứng liên quan đến vụ án không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu và tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, Imei: 354864024099054, có gắn sim: 0342222205 thu giữ của Đặng Thanh T; T sử dụng điện thoại để liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu đen, Imei: 866950036801339; có gắn sim: 0975073173 thu giữ của Đặng Thanh T không liên quan đến vụ án nên trả lại cho T nhưng quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động Itel màu đen, Imei: 357659099178388; có gắn sim: 0702557294 thu giữ của Đặng Ngọc Tuấn V không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho V.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28.3.2019).

[7] Đối với 01 (một) xe ôtô hiệu Toyota Vios, biển kiểm soát: 43A- 307.19. Qua điều tra xác định, chủ sở hữu và đứng tên trên giấy đăng ký xe là Công ty cổ phần X, do anh Hồ Công Trọng N điều khiển. Anh N không biết hành vi phạm tội của T. Do đó, ngày 02.01.2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã trả lại xe ô tô nêu trên cho Công ty cổ phần X là đúng.

[8] Đối với Đặng Thanh T, Đặng Ngọc Tuấn V có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

[9] Đối với Đặng Ngọc Tuấn V và Hồ Công Trọng N không biết T mua bán trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê không đề cập xử lý là đúng.

[10] Đối với đối tượng tên Bi (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng số điện thoại 0933023434 để liên lạc bán ma túy cho T. Kết quả điều tra xác định chủ thuê bao số điện thoại di động 0933023434 là của bà Hồ Huyền Trâm (sinh ngày: 30.12.1966, HKTT: Phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng). Kết quả xác minh, không có người tên Hồ Huyền Trâm đăng ký thường trú tại Phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[11] Đối với đối tượng tên Sói (không rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng số điện thoại 0935560649 để liên lạc mua ma túy của T. Kết quả điều tra xác định chủ thuê bao số điện thoại di động 0933023434 là của Võ Thị Thùy Dung (sinh ngày: 16.8.2001, HKTT: Phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng). Kết quả xác minh, hiện Dung không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì không rõ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau.

[12] Án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo Đặng Thanh T phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Thanh T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

Xử phạt: Bị cáo Đặng Thanh T 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29.12.2018.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tuyên:

- Tịch thu và tiêu hủy ma túy hoàn trả sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì niêm phong số 265/GĐ-MT ngày 03.01.2019, có đóng dấu giáp lai của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu vàng, Imei: 354864024099054, có gắn sim: 0342222205 thu giữ của Đặng Thanh T.

- Trả cho Đặng Thanh T 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo màu đen, Imei: 866950036801339; có gắn sim: 0975073173 nhưng cần quy trữ để đảm bảo thi hành án.

- Trả cho Đặng Ngọc Tuấn V 01 (một) điện thoại di động Itel màu đen, Imei: 357659099178388; có gắn sim: 0702557294.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Thanh Khê theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28.3.2019).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016, bị cáo Đặng Thanh T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - Công ty cổ phần X được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ nhận hoặc niêm yết (trích sao) bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HS-ST ngày 18/05/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Khê - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về