Bản án 37/2019/HSPT ngày 19/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 37/2019/HSPT NGÀY 19/03/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19/3/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 52/TLPT-HS ngày 22 tháng 02 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn P do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 06/2018/HSST ngày 16/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang.

- Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Văn P, sinh năm 1982, tên gọi khác: Không; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn P, xã S, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa:12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn B, sinh năm 1956 và bà: Nguyễn Thị N, sinh năm 1958, có vợ Nguyễn Thị K, sinh năm 1982 (đã ly hôn) và có 02 con (con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2009).

Tiền án:

+Tại Bản án số 105/2015/HSST ngày 25/8/2015, Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 02 năm 04 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 15/6/2017.

+ Tại Bản án số 43/2013/HSST ngày 05/3/2013, Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 02 năm 02 tháng tù về tội “Tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 09/9/2014.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Quyết định số 1789/QĐ-UBND ngày 27/7/2010, Chủ tịch UBND thành phố B áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh trong thời gian 24 tháng.

Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/11/2018 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang. (có mặt)

Ngoài ra còn có bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng do không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị nên cấp phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 17/10/2018, Nguyễn Văn P đang ở nhà (dạng nhà sàn 2 tầng) thì có ông Nguyễn Văn Q đi chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại Jupiter màu S đen-xám-bạc biển kiểm soát 98B2-161.24 đến chơi với bố của P, ông Q dựng xe máy ở sàn nhà tầng một rồi đi lên tầng hai ngồi chơi. Khoảng 14 giờ cùng ngày 17/10/2018, P đi xuống tầng một thì nhìn thấy chiếc xe máy của ông Q vẫn dựng ở đó, chìa khóa xe vẫn cắm ở ổ khóa điện nên P đã nảy sinh ý định trộm cắp. Sau khi quan sát xung quanh thấy không có ai để ý, P dắt xe máy ra ngoài cửa, đạp nổ máy đi đến quán Game của anh Nguyễn Ngọc S ở thôn H, xã H, huyện V, tỉnh Bắc Giang chơi điện tử. Sau khi chơi điện tử xong, P hỏi vay của anh S số tiền 3.500.000 đồng, để lại chiếc xe máy Jupiter biển kiểm soát 98B2-161.24 làm tin, hẹn anh S 02 hôm sau sẽ quay lại trả tiền, lấy xe. Anh S có hỏi thì P nói đó là xe của nhà P, anh S đồng ý đưa cho P vay số tiền 3.500.000 đồng, hai bên không viết giấy tờ gì. Số tiền này, P khai đã ăn tiêu cá nhân hết.

Ngày 29/10/2018, ông Q có đơn trình báo Công an thành phố B.

Ngày 01/11/2018, Nguyễn Văn P đến Công an thành phố B đầu thú, không giao nộp đồ vật tài sản gì. Cùng ngày 01/11/2018, anh Nguyễn Văn L là người cùng làm việc với anh S đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra chiếc xe máy Jupiter biển kiểm soát 98B2-161.24. Anh L chỉ là người giao nộp chiếc xe còn việc anh S cho Nguyễn Văn P vay tiền, nhận xe làm tin anh L không biết.

Ngày 03/11/2018, Cơ quan điều tra đã xác định hiện trường và thực nghiệm điều tra vụ án. Kết quả, Nguyễn Văn P đã thực hiện lại hành vi trộm cắp tài sản như đã khai nhận tại Cơ quan điều tra.

Tại kết luận định giá tài sản số 127/KL- HĐĐG ngày 03/11/2018, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận như sau: “01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA loại Jupiter, màu S đen-xám-bạc BKS: 98B2-161.24, số máy: 2S01023937, số khung: S0106Y023937, xe đã qua sử dụng có giá trị là 9.000.000 đồng”.

Ngày 07/11/2018, Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Q chiếc xe máy bị trộm cắp, đến nay ông Q, bà Thân Thị L (vợ ông Q) không có yêu cầu bồi thường dân sự.

Đối với anh Nguyễn Ngọc S có hành vi giữ lại chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA loại Jupiter, màu S đen-xám-bạc BKS 98B2-161.24 và cho P vay tiền, nhưng anh S không biết đó là tài sản do trộm cắp mà có nên anh S không vi phạm pháp luật. Đến nay anh S yêu cầu P phải hoàn trả cho anh số tiền 3.500.000 đồng.

Tại Bản Cáo trạng số 04/CT-VKS ngày 10 tháng 12 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Với nội dung trên bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang đã xét xử và quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P 01 năm 02 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 01/11/2018.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi cấp sơ thẩm xét xử xong, ngày 25/01/2019 bị cáo Nguyễn Văn P có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn P vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là cao, ngoài ra không còn lý do nào khác.

Đại diện VKSND tỉnh Bắc Giang thực hành quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích các tình tiết của vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đưa ra đề nghị xem xét các vấn đề kháng cáo mà bị cáo nêu ra đã kết luận và đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn P, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Văn P không tranh luận gì thêm.

Lời nói sau cùng của bị cáo Nguyễn Văn P: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn P nộp theo đúng các quy định của pháp luật nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp cần được chấp nhận để xem xét.

[2] Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, qua quá trình xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thấy đủ cơ sở xác định: Khoảng 14 giờ ngày 17/10/2018 tại thôn P, xã S, thành phố B, lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản, bị cáo P đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe máy nhãn hiệu YAMAHA Jupiter, màu S đen-xám-bạc BKS 98B2-161.24 có trị giá là 9.000.000 đồng của ông Nguyễn Văn Q.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ .

Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HS-ST ngày 16/01/2019 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang xét xử bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn P thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ. Chỉ vì lợi ích trước mắt, bị cáo đã chiếm đoạt tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong nội bộ quần chúng nhân dân. Án sơ thẩm sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi của bị cáo, đánh giá toàn bộ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo đã xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 01 năm 02 tháng tù là hoàn toàn tương xứng với tính chất, mức độ hành vi của bị cáo.

Bị cáo P kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, tuy nhiên tại Tòa án cấp phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới nên Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với bị cáo Nguyễn Văn P như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:

Do bị cáo Nguyễn Văn P không được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn P. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn P 01 năm 02 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 01/11/2018.

[2] Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:

Bị cáo Nguyễn Văn P phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

300
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HSPT ngày 19/03/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:37/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về