TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 37/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 18/9/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 180/2019/TLST-HNGĐ ngày 21/5/2019 vê việc “tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 208/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/8/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 159/2019/QĐST-HNGĐ ngày 10/9/2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Lâm Thị Ngọc Y, sinh năm 1988.
Địa chỉ: Khu phố M, phường P, thị xã A, tỉnh Bình Dương.
- Bị đơn: Nguyễn Văn S, sinh năm 1987.
Địa chỉ: Tổ M, ấp H, xã T, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp.
(Chị Y có mặt, anh S vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, chị Lâm Thị Ngọc Y trình bày:
Quan hệ hôn nhân: Chị Lâm Thị Ngọc Y và anh Nguyễn Văn S kết hôn năm 2016, có đăng ký kết hôn ngày 16/9/2016, tại Ủy ban nhân dân xã, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp (giấy chứng nhận kết hôn số 84).
Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến khi có con, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh S có quan hệ tình cảm với chị Huỳnh Thị Ngọc M (quê quán ở huyện M, tỉnh An Giang), Chị Y sinh mổ bắt con nhưng anh S chỉ chăm sóc được hai ngày là bỏ chị một mình ở bệnh viện, chị phải nhờ đến bạn bè giúp đỡ, con bị bệnh tim bẩm sinh nhưng anh S bỏ mặc, không cùng Chị Y chăm sóc con và không phụ tiếp tiền sinh hoạt phí, anh S còn yêu cầu Chị Y đưa tiền cho anh trả nợ và nuôi chị Minh hàng ngày, mua sắm xe cho chị Minh sử dụng, chị Minh còn báo tin chọc tức chị. Chị Y yêu cầu anh S chấm dứt quan hệ tình cảm với chị Minh thì anh S bảo chị “không chấp nhận được thì biến”. Bị phản bội nhưng Chị Y vẫn cam chịu cho anh S cơ hội, hy vọng anh S sẽ suy nghĩ lại nhưng không có kết quả. Thời gian qua, mỗi lần Chị Y gọi điện là anh S bỏ đi vài ngày mới về. Gần đây, anh S đã về quê làm ăn, Chị Y gọi cho anh S thì lúc nào chị Minh cũng là người nhận cuộc gọi.
Anh S đã công khai chung sống với chị Minh như vợ chồng. Chị Y không chấp nhận người chồng phản bội nên chị không muốn kéo dài cuộc hôn nhân với anh S nữa. Chị Y không yêu cầu xử lý quan hệ tình cảm của anh S với chị Minh. Nay, Chị Y yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn S.
Con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Lâm Thiện Nhân, sinh ngày 24/01/2017, hiện con chung đang sống với Chị Y. Khi khởi kiện, Chị Y yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng là 1/2 mức lương cơ sở cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Tại phiên tòa, chị không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con chung.
Tài sản chung: Không có.
Nợ chung: Không có.
Đối với anh Nguyễn Văn S, Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh S nhưng anh S không có văn bản trình bày ý kiến về nội dung vụ án, không cung cấp tài liệu chứng cứ liên quan đến vụ án, không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và vắng mặt tại phiên tòa hôm nay không lý do.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Căn cứ vào nội dung đơn khởi kiện của chị Lâm Thị Ngọc Y và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện quan hệ pháp luật tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con. Bị đơn anh Nguyễn Văn S có địa chỉ tại xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng Dân sự.
Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Văn S nhưng anh Nguyễn Văn S không có mặt tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án và anh Nguyễn Văn S cũng không có mặt tại phiên tòa hôm nay nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn S theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: Xét quan hệ hôn nhân của chị Lâm Thị Ngọc Y và anh Nguyễn Văn S được xác lập vào năm 2016, do hai anh chị tự nguyện và thừa nhận, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh ngày 16/9/2016 nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Trong quá trình sống chung, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Tại phiên tòa hôm nay, Chị Y cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh S, anh S không có mặt, không cung cấp tài liệu chứng cứ gì liên quan đến vụ án và không trình bày ý kiến của anh về quan hệ hôn nhân. Hội đồng xét xử xét thấy: Chị Y cho rằng anh S có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác tên Minh nhưng Chị Y không có tài liệu, chứng cứ chứng minh việc anh S có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác và tại phiên tòa hôm nay Chị Y không yêu cầu xử lý hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng của anh S nên Hội đồng xét xử không xem xét. Đối với quan hệ hôn nhân giữa Chị Y với anh S, Chị Y và anh S có nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng xa nhau đã hơn 02 năm nhưng không hàn gắn tình cảm, mỗi người có cuộc sống riêng, vợ chồng không còn tình cảm thương yêu, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của Chị Y là phù hợp với Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Chị Y được ly hôn với anh S.
[3] Xét con chung: Chị Lâm Thị Ngọc Y và anh Nguyễn Văn S có 01 con chung tên Lâm Thiện Nhân, sinh ngày 24/01/2017, hiện con chung đang sống với Chị Y. Tại phiên tòa, Chị Y vẫn giữ nguyên yêu cầu là được tiếp tục nuôi con chung; anh S không có văn bản ghi ý kiến, không có mặt tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay anh S cũng không có mặt để trình bày ý kiến về con chung. Hội đồng xét xử xét thấy bé Thiện Nhân từ khi sinh ra đến nay đã sống chung với Chị Y, có cuộc sống ổn định. Ngoài ra, bé Thiện Nhân vừa mới phẫu thuật chưa thật sự ổn định và bé còn rất nhỏ, dưới 36 tháng tuổi, cần được sự chăm sóc của mẹ nhiều hơn nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Chị Y được tiếp tục nuôi con chung tên Lâm Thiện Nhân, sinh ngày 24/01/2017 là phù hợp với khoản 3 Điều 81 và Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
[4] Xét cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung: Tại phiên tòa hôm nay, chị Lâm Thị Ngọc Y trình bày, chị không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con, vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung; anh Nguyễn Văn S vắng mặt và cũng không có văn bản trình bày ý kiến về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Án phí: Chị Lâm Thị Ngọc Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Anh Nguyễn Văn S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Lâm Thị Ngọc Y, chị Lâm Thị Ngọc Y được ly hôn với anh Nguyễn Văn S.
Con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Lâm Thị Ngọc Y, chị Lâm Thị Ngọc Y được tiếp tục nuôi con chung tên Lâm Thiện Nhân, sinh ngày 24/01/2017, hiện con chung đang sống với Chị Y.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét.
Án phí: Chị Lâm Thị Ngọc Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008798 ngày 13/5/2019 của Cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, như vậy chị Lâm Thị Ngọc Y đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.
Anh Nguyễn Văn S không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Chị Lâm Thị Ngọc Y có quyền kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn S có quyền kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết hoặc nhận được bản án.
Bản án có hiệu lực thi hành ngày 31/10/2019.
Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 18/09/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 37/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 18/09/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về