Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 15/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 37/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 15 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 71/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 4 năm 2019 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Vũ Thị T, sinh năm 1988

- Bị đơn: Anh Huỳnh Văn H, sinh năm 1990

Cùng trú tại: Thôn Q, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Các đương sự vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 04/4/2019 và bản tự khai, nguyên đơn chị Vũ Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh Huỳnh Văn H kết hôn với nhau và có đăng ký tại Uỷ ban nhân dân xã S ngày 12/4/2010 trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng anh chị sinh sống tại thôn Q, xã S. Hai vợ chồng chỉ sống hạnh phúc được khoảng 7 năm thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh H không quan tâm đến vợ con, vợ chồng không hòa thuận, anh chị ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Chị xác định mâu thuẫn giữa chị và anh H trầm trọng, không còn tình cảm vợ chồng nên chị xin ly hôn với anh H để ổn định cuộc sống riêng.

Về con chung: Chị xác định chị và anh H có 02 con chung là cháu Huỳnh Nhật T sinh ngày 15/7/2009, Huỳnh Thu P sinh ngày 04/6/2011, hiện hai cháu đang ở với chị. Nguyện vọng của chị sau ly hôn là xin tiếp tục được chăm sóc và nuôi dưỡng cả hai cháu, chị không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và công nợ chung: Chị không yêu cầu giải quyết.

Ngày 04/4/2019 Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý vụ án về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo đơn khởi kiện của chị Vũ Thị T. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện N đã tiến hành giải quyết vụ án theo đúng thủ tục pháp luật quy định.

Đối với anh Huỳnh Văn H mặc dù đã biết việc Tòa án nhân dân huyện N đã thụ lý giải quyết vụ án chị T xin ly hôn với anh, nhưng anh H vẫn không gửi văn bản trả lời thông báo thụ lý vụ án đến Tòa án và cũng không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Theo biên bản xác minh của Tòa án với Ủy ban nhân dân xã S thì hiện nay anh H vẫn đang có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại thôn Q, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

Tại đơn trình bày ý kiến của cháu Huỳnh Nhật T và cháu Huỳnh Thu P: Cả hai cháu đều có nguyện vọng xin tiếp tục ở với chị T vì các cháu cho rằng mẹ chăm sóc tốt hơn.

Tại đơn xin xử vắng mặt, nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn với anh H, xin nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

Về thủ tục tố tụng:

* Việc tuân theo pháp luật trong thời gian chuẩn bị xét xử:

- Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn anh Huỳnh Văn H có hộ khẩu thường trú tại thôn Q, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Toà án nhân dân huyện N thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35, Điều 39 BLTTDS 2015. Việc thụ lý vụ án đúng quy định của pháp luật.

- Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách tố tụng trong vụ án đầy đủ, chính xác.

- Thời hạn gửi hồ sơ, văn bản tố tụng cho Viện kiểm sát đảm bảo quy định của pháp luật, việc tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự thực hiện đúng quy định của BL TTDS.

- Việc giao nộp tài liệu chứng cứ: Thực hiện đúng các quy định tại Điều 96 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các tài liệu là bản sao đều có chứng thực của cơ quan có thẩm quyền.

- Về thời hạn chuẩn bị xét xử Thẩm phán đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 203 BLTTDS 2015, Quyết định đưa vụ án ra xét xử đảm bảo về hình thức, nội dung.

* Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và Thư ký tại phiên tòa:

- Phiên tòa hôm nay diễn ra theo thời gian với thành phần Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đúng như trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử.

- Tại phiên toà hôm nay Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của BLTTDS 2015.

*Việc chấp hành pháp luật của ngƣời tham gia tố tụng:

Nguyên đơn thực hiện đúng đầy đủ các quy định tại các Điều 70, 71 BLTTDS 2015. Bị đơn không thực hiện đúng quy định tại điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Không thể hiện quan điểm đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn,không tham gia các buối tiếp cận, công khai chứ cứ và hòa giải. không tham gia phiên tòa dù đã đươc Tòa án thông báo, triệu tập hợp lệ.

Tại phiên tòa, chị T vắng mặt có đơn xin xử vắng mặt,anh H vắng mặt lần 2 Tòa án vẫn tiến hành xét xử là đúng quy định tại điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung, đề nghị HĐXX:

Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 5, 147, 227, 228, 266, 271 và khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 5 điều 27 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Đề nghị xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu khởi kiện của chị Vũ Thị T. Xử ly hôn giữa chị Vũ Thị T với anh Huỳnh Văn H.

2. Về con chung: Giao cháu Huỳnh Nhật T, sinh ngày 15/07/2009 và cháu Huỳnh Thu P, sinh ngày 04/06/2011 hiện đang ở cùng chị T cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T.

3. Về án phí ly hôn: Chị Vũ Thị T phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bị đơn có hộ khẩu thường trú tại thôn Q, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về nội dung: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa HĐXX nhận thấy:

[2.1].Về quan hệ hôn nhân:

Quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh H là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên hai bên chỉ chung sống được với nhau được khoảng 5 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh H không quan tâm đến vợ con. Cuộc sống vợ chồng không hòa hợp. Việc chị T và anh H ly thân từ năm 2015 cho đến nay chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa hai bên chỉ còn tồn tại về mặt hình thức, mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị T với anh H là có căn cứ, phù hợp Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2].Về con chung: Nguyện vọng của T xin được tiếp tục nuôi con chung là các cháu Huỳnh Nhật T, sinh ngày 15/07/2009 và cháu Huỳnh Thu P, sinh ngày 04/06/2011 hiện đang ở với chị, Hội đồng xét xử thấy: Hiện nay cháu P và cháu T hiện đang ở ổn định cùng với mẹ, được mẹ chăm sóc và nuôi dưỡng từ nhỏ, các cháu cũng có nguyện vọng được tiếp tục ở với mẹ, bản thân chị T là công nhân có thu nhập hơn 7 triệu/ tháng đảm bảo việc nuôi dưỡng hai cháu. Vì vậy để đảm bảo điều kiện tốt nhất mọi mặt cho các cháu nên giao cháu T và cháu P cho chị T tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với thực tế, có căn cứ theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T không có yêu cầu nên không đặt ra việc giải quyết.

[2.4]. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị T phải nộp theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên.

 QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ các điều 147, 227, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Áp dụng các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí Toà án.

1. Chấp nhận yêu khởi kiện của chị Vũ Thị T. Xử ly hôn giữa chị Vũ Thị T và anh Huỳnh Văn H.

2.Về con chung:Giao các cháu Huỳnh Nhật T sinh ngày 15/07/2009 và cháu Huỳnh Thu P sinh ngày 04/06/2011 hiện các cháu đang ở với chị Thìn cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh H không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị T.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Vũ Thị T phải nộp là 300.000 đồng. Được trừ vào số tiền tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp 300.000đ theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2013/0000089 ngày 04/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Quyền kháng cáo: Chị T và anh H được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

308
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2019/HNGĐ-ST ngày 15/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:37/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về