Bản án 37/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 37/2018/HS-ST NGÀY 29/06/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 29 tháng 6 năm 2018, tại Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Đỗ Quang Đ, sinh ngày 23 tháng 4 năm 1987 tại xã T, huyện M, Thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Thôn B, xã T, huyện M, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Quang P và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Nguyễn Thị A và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; tại ngoại tại địa phương, “có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Thế H, Luật sư Văn phòng luật sư P thuộc Đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Phúc.

- Bị hại:

1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1995; địa chỉ: Tổ dân phố L, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc (đã chết).

Người đại diện hợp pháp của anh T:

Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1959 (là bố anh T); địa chỉ: Tổ dân phố L, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc.

Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1966 (là mẹ anh T); địa chỉ: Tổ dân phố L, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc.

Người đại diện theo ủy quyền của bà T: Ông Nguyễn Văn S (là chồng bà T) theo văn bản ủy quyền ngày 27 tháng 3 năm 2018, “có mặt”.

2. Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc, “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 10 phút ngày 24 tháng 12 năm 2017, sau khi uống rượu xong, Đỗ Quang Đ không có Giấy phép lái xe mô tô hạng A1 theo quy định, điều khiển xe mô tô loại xe Honda Wave màu xanh biển kiểm soát 29Z1 - 433.40 dung tích xi lanh 97cm3 đi trên đường 302B là đường 2 chiều, đi theo hướng từ thị trấn Hương Canh đi xã Bá Hiến. Khi đi đến Km1 + 300 đường 302B thuộc địa phận xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, Đ điều khiển xe đi lấn sang phần đường ngược chiều hướng xã Bá Hiến đi thị trấn Hương Canh nên đã đâm vào xe mô tô loại xe Honda Wave màu trắng biển kiểm soát 88G1 - 332.78 do anh Nguyễn Văn T điều khiển chở theo bạn gái là chị Nguyễn Thị N đi hướng từ xã Bá Hiến đi thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên. Hậu quả làm anh T bị thương được gia đình đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Việt Đức nhưng đến ngày 26 tháng 12 năm 2017 thì tử vong, chị N bị xây sát nhẹ còn Đ được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa khu vực Phúc Yên.

Sau khi tai nạn xảy ra, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Bình Xuyên đã tiến hành vẽ sơ đồ vụ tai nạn, chụp ảnh hiện trường và phương tiện, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện liên quan đến vụ tai nạn giao thông theo đúng quy định của pháp luật và các bên liên quan không có ý kiến gì. Cùng ngày xảy ra tai nạn, Cơ quan điều tra đề nghị Bệnh viện đa khoa khu vực Phúc Yên xác định nồng độ cồn trong máu của Đỗ Quang Đ. Tại Phiếu xét nghiệm ngày 24 tháng 12 năm 2017 của Bệnh viện đa khoa khu vực Phúc Yên xác định nồng độ cồn trong máu của Đỗ Quang Đ là 167,7mg/100ml máu.

Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên đã trưng cầu Trung tâm pháp y tỉnh Vĩnh Phúc giám định nguyên nhân tử vong của anh Nguyễn Văn T; trưng cầu Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc giám định nồng độ cồn, ma túy trong máu của tử thi Nguyễn Văn T.

Tại bản giám định pháp y về tử thi số 297/TT ngày 27 tháng 12 năm 2017 của Trung tâm Pháp y tỉnh Vĩnh Phúc đối với anh Nguyễn Văn T đã kết luận: Nguyên nhân anh T tử vong là do bị sốc đa chấn thương không hồi phục.

Tại Kết luận giám định số 1604 ngày 28 tháng 12 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận trong mẫu máu của tử thi T không có cồn và ma túy.

Do chị Nguyễn Thị N từ chối việc giám định thương tích nên Trung tâm Pháp y tỉnh Vĩnh Phúc không giám định được.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ của Đỗ Quang Đ 01 xe mô tô biển kiểm soát 29Z1 - 433.40 cùng đăng ký xe; thu giữ của Nguyễn Văn T 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1 và 01 xe mô tô biển kiểm soát 88G1- 332.78 cùng đăng ký xe sau đó đã trả lại xe cùng đăng ký xe cho ông Nguyễn Văn S.

Tại Cáo trạng số 35/CT-VKSBX ngày 16 tháng 5 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên truy tố bị cáo Đỗ Quang Đ về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội đối với Đỗ Quang Đ, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như Cáo trạng đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 xử phạt bị cáo từ 03 năm 09 tháng đến 04 năm 03 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị ghi nhận sự tự nguyện thoả thuận bồi thường thiệt hại dân sự giữa bị cáo với người đại diện hợp pháp của người bị hại.

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị trả lại cho Đỗ Quang Đ chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29Z1 - 433.40 cùng đăng ký xe và tịch thu tiêu hủy 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1 mang tên Nguyễn Văn T.

Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

Luật sư bào chữa cho bị cáo Đỗ Quang Đ trình bày bản bào chữa khẳng định Cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Luật sư đồng tình với quan điểm của Viện kiểm sát về việc đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều luật đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Đỗ Quang Đ 03 năm 09 tháng tù.

Đại diện hợp pháp của bị hại xác nhận đã nhận đủ số tiền bồi thường là 100 triệu đồng của bị cáo ngày 24 tháng 3 năm 2018, không có yêu cầu gì khác và đề nghị Hội đồng xét xử miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Đỗ Quang Đ thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên. Đỗ Quang Đ khai nhận khoảng 21 giờ 10 phút ngày 24 tháng 12 năm 2017, bị cáo điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 29Z1- 433.40 dung tích xi lanh 97cm3 trong tình trạng say rượu và không có giấy phép lái xe theo quy định đi trên đường 302B hướng đi từ thị trấn Hương Canh đi xã Bá Hiến. Khi đến Km1 + 300 thuộc địa phận xã Tam Hợp, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc do Đỗ Quang Đ không giảm tốc độ và đi lấn sang phần đường ngược chiều nên đã đâm vào xe mô tô đi ngược chiều do anh Nguyễn Văn T điều khiển chở theo bạn gái là chị Nguyễn Thị N đang đi sát lề phải đường. Hậu quả làm anh T bị thương và tử vong ngày 26 tháng 12 năm 2017, còn chị N bị xây sát nhẹ.

[2] Lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người đại diện hợp pháp bị hại, lời khai của người làm chứng; sơ đồ vụ tai nạn, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám nghiệm phương tiện giao thông có liên quan đến vụ tai nạn; kết luận giám định pháp y; kết luận giám định hình sự; bản ảnh chụp tại hiện trường cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa.

Hành vi điều khiển xe mô tô của Đỗ Quang Đ đã vi phạm khoản 1 Điều 9 và khoản 1 Điều 17 Luật Giao thông đường bộ quy định về quy tắc chung khi tham gia giao thông và tránh xe đi ngược chiều đã gây hậu quả làm anh Nguyễn Văn T bị tử vong và chị Nguyễn Thị N bị thương nhẹ. Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Xuyên đã có quyết định trưng cầu giám định thương tích đối với chị Nguyễn Thị N nhưng chị N từ chối giám định. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có cơ sở để xác định mức độ tổn hại sức khỏe của chị N. Căn cứ hướng dẫn tại tại điểm a khoản 1 Điều 2 Chương I của Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28 tháng 8 năm 2013 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông thì hành vi của bị cáo Đ thuộc trường hợp “Gây thiệt hại cho tính mạng của người khác”.

Bị cáo điều khiển xe mô tô mà trong máu có nồng độ cồn 167,7 miligam/100 mililít máu vượt quá mức 50 miligam/100 mililít máu và điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe là vi phạm quy định tại khoản 8, khoản 9 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ nên phải chịu hai tình tiết định khung quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 là không có giấy phép lái xe và trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Đỗ Quang Đ đã phạm vào tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; tội danh được quy định tại khoản 2 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 có khung hình phạt tù từ ba năm đến mười năm.

[3] Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ gây ra thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của người khác, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình người bị hại cũng như của gia đình bị cáo. Nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành luật giao thông đường bộ của bị cáo còn kém. Đấu tranh với các hành vi vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông nói chung trong đó có an toàn giao thông đường bộ nói riêng nhằm thiết lập lại sự bình yên, hạnh phúc cho mọi người và trật tự, an toàn cho xã hội là cần thiết.

[4] Xét nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo được hưởng ba tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự là đã tự nguyện khắc phục hậu quả với số tiền 100 triệu đồng để thăm hỏi, động viên và giúp gia đình bị hại tổ chức việc mai táng, thờ cúng cho bị hại; có thái độ thành khẩn khai báo; thực sự ăn năn hối cải. Tuy trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt, được người đại diện hợp pháp của bị hại có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự nhưng hành vi phạm tội của bị cáo rất nghiêm trọng, lỗi hoàn toàn thuộc về bị cáo, bị cáo phải chịu hai tình tiết định khung hình phạt nên không đủ điều kiện để áp dụng Điều 60 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo mà cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại Trại giam với mức án như đề nghị của Viện kiểm sát mới đủ tác dụng để răn đe, phòng chống đối với loại tội phạm này.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra giữa bị cáo với người đại diện hợp pháp của bị hại cùng thống nhất thoả thuận về bồi thường dân sự với tổng số tiền là 100 triệu đồng; đồng thời tại phiên tòa các bên đề nghị ghi nhận về việc tự nguyện thỏa thuận bồi thường dân sự. Xét đây là thỏa thuận tự nguyện và không trái pháp luật, Hội đồng xét xử sẽ ghi nhận.

[6] Về vật chứng của vụ án: Quá trình điều tra, đại diện hợp pháp của bị hại xác nhận đã được trả lại tài sản là xe mô tô biển kiểm soát 88G1 - 332.78 cùng đăng ký xe và không có yêu cầu gì nên Tòa không xét. Đối với xe mô tô và đăng ký xe mà Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo thì trả lại cho bị cáo. Đối với giấy phép lái xe của bị hại đã chết do đại diện hợp pháp của bị hại đề nghị tiêu hủy vì không còn giá trị nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, của Điều tra viên, của Viện kiểm sát, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện đầy đủ, đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong vụ án là hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Quang Đ phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Đỗ Quang Đ 03 (Ba) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 42 của Bộ luật Hình sự 1999; các Điều 584, 585, 586 và 591 của Bộ luật Dân sự 2015.

Ghi nhận sự tự nguyện thỏa thuận về việc bồi thường thiệt hại dân sự giữa bị cáo Đỗ Quang Đ cho người đại diện hợp pháp của bị hại với tổng số tiền là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng). Xác nhận người đại diện hợp pháp của bị hại là ông Nguyễn Văn S đã nhận đủ số tiền trên theo biên bản nhận tiền ngày 24 tháng 3 năm 2018.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 41 của Bộ luật Hình sự năm 1999; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại cho Đỗ Quang Đ chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29Z1 - 433.40 cùng đăng ký xe nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1 mang tên Nguyễn Văn T.

Tất cả các vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên lập ngày 25 tháng 6 năm 2018.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đỗ Quang Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại đã chết có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2018/HS-ST ngày 29/06/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:37/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về