Bản án 37/2018/HS-ST ngày 05/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUẦN GIÁO, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 37/2018/HS-ST NGÀY 05/03/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 3 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2018/TLST- HS ngày 31 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2018/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 02 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn H; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1982 tại: Xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên.

Nơi cư trú: Bản S, xã Q, huyện T, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ văn hóa: Lớp 6/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn B, sinh năm 1937 và con bà Lò Thị X, sinh năm 1956; vợ là Lò Thị C, sinh năm 1982 và có 01 con sinh năm 2006; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa lần nào bị Tòa án xét xử, chưa lần nào bị xử lý hành chính; bị bắt tạm giữ từ ngày 28/11/2017, tạm giam ngày 01/12/2017, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Lê Thị Xuân, Luật sư - Cộng tác viên trợ giúp pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên bào chữa cho bị cáo Lò Văn H, (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 07 giờ 20 phút ngày 28/11/2017, tổ công tác Công an huyện T đang làm nhiệm vụ tại khu vực bản S, xã Q, huyện T, bắt quả tang Lò Văn H, thu giữ 02 gói Heroine và tạm giữ số tiền 320.000đ (ba trăm hai mươi nghìn đồng), tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và dẫn giải Lò Văn H về Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Cùng ngày 28/11/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo đã tiến hành mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại vật chứng. Xác định 02 gói Heroine thu giữ của Lò Văn H có tổng khối lượng là 0,41 gam, trích 0,08 gửi giám định, vật chứng còn lại là 0,33 gam. Ngày 29/11/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra ra Quyết định trưng cầu giám định số 169. Tại bản kết luận giám định số: 173/GĐ-PC54 ngày 25/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng gửi giám định được trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn H là chất ma túy: Loại Heroine”.

Tại Cơ quan Điều tra và phiên tòa hôm nay bị cáo Lò Văn H khai nhận: Khoảng 19 giờ ngày 27/11/2017, bị cáo H đi bộ một mình vào bản N, xã Q, huyện Tuần Giáo để tìm mua Heroine. Khi đến bản N, xã Q, huyện T, bị cáo gặp một người đàn ông dân tộc thái, không biết họ và tên, địa chỉ, nhìn giống như người nghiện chất ma túy. Bị cáo hỏi người đàn ông “Anh có biết nơi nào bán Heroine không?”, người đàn ông nói “Đưa tiền đây, tôi sẽ đi mua Heroine giúp cho”, bị cáo đồng ý và đưa số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) cho người đàn ông. Sau khi nhận được tiền, người đàn ông đi khoảng 10 phút thì quay lại ra đưa cho bị cáo 01 gói Heroine. Việc mua bán Heroine chỉ có bị cáo và người đàn ông này biết với nhau, không cân xác định khối lượng. Sau khi mua được gói Heroine, bị cáo mang gói Heroine về nhà, cấu một ít ra để sử dụng. Số Heroine còn lại thì bị cáo chia thành 02 phần, dùng nilon gói thành hai gói nhỏ nhằm mục đích để sử dụng và bán lẻ. Khi gói xong, bị cáo cho 02 gói Heroine vào trong túi áo khoác cất giấu và đi ngủ. Đến sáng ngày 28/11/2017 thì tổ công tác công an huyện T đến bắt quả tang, thu giữ 02 gói Heroine, tạm giữ số tiền 320.000đ (ba trăm hai mươi nghìn đồng) và dẫn giải bị cáo về Công an huyện Tuần Giáo để điều tra làm rõ.

Tại bản Cáo trạng số: 19/CT-VKS ngày 30 tháng 01 năm 2018, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo đã truy tố bị cáo Lò Văn H về tội: Mua bán trái phép chất ma tuý theo quy định tại Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 194, Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị tịch thu tiêu hủy một phong bì màu trắng các  mép  đều  được dán  kín  có  khối  lượng  0,33  gam Heroine. Đối với số tiền 320.000đ (ba trăm hai mươi nghìn đồng) Công an đã tạm giữ là tiền bán thóc và gà của gia đình mà có, không liên quan đến hành vi phạm tội, đề nghị trả lại cho bị cáo.

Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, đề nghị miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với bản Cáo trạng, Luận tội của Kiểm sát viên xét xử bị cáo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; nhất trí với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; không phạt bổ sung bằng tiền, trả lại số tiền 320.000đ và miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và không có ý kiến tranh luận đối với bản luận tội của Kiểm sát viên; bị cáo không bổ sung ý kiến đối với lời bào chữa của người bào chữa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Ngoài xin giảm nhẹ hình phạt bị cáo không có ý kiến gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và các Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần Giáo; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan đã thực hiện đều hợp pháp và được chấp nhận.

[2] Về hành vi của bị cáo: Ngày 27/11/2017 bị cáo Lò Văn H mua 01 gói Heroine về nhà cấu ra sử dụng một ít, số còn lại chia thành 02 gói nhỏ, mục đích để sử dụng và bán lẻ, nhưng bị cáo chưa kịp bán cho ai. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo còn phải chịu trách nhiệm hình sự về khối lượng Heroine là 0,41 gam đã bị thu giữ. Vì vậy Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo là người có đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Lò Văn H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Khoản 1 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[3] Về tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội thì hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo trực tiếp tiếp tay cho những người chuyên mua bán các chất ma túy tồn tại và phát triển; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm .... làm ảnh hưởng đến trật tự trị an, an toàn xã hội trên địa bàn huyện Tuần Giáo nói riêng và tỉnh Điện Biên nói chung. Tội phạm mà bị cáo vi phạm là tội phạm nghiêm trọng. Vì vậy hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật, mới có tác dụng phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống tội phạm.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; bị cáo có bố đẻ được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999. Cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo thông qua hình phạt để răn đe, giáo dục bị cáo thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật, đồng thời giúp bị cáo cai nghiện chất ma túy.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản theo quy định tại Khoản 5 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Xét thấy điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và nghiện chất ma túy. Thu nhập của bị cáo chỉ dựa vào sản xuất nông nghiệp, nên không có khả năng thi hành. Do đó, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo 24 tháng đến 30 tháng tù và không phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo. Hội đồng xét xử thấy là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo nên cần chấp nhận.

[7] Người bào chữa cho bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Đối với người đàn ông dân tộc Thái, bị cáo khai đã nhờ đi mua Heroine cho bị cáo với giá 200.000đ vào ngày 27/11/2017. Quá trình điều tra, bị cáo khai không biết tên, địa chỉ của người đàn ông đó, ngoài lời khai của bị cáo ra không có tài liệu nào khác chứng minh. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tuần Giáo không có căn cứ để điều tra, xác minh. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Vật chứng vụ án: Đối với một phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,33 gam Heroine cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 320.000đ (ba trăm hai mươi nghìn đồng) Công an đã tạm giữ vào ngày 28/11/2017 là tiền bán thóc  và gà của gia đình mà có không liên quan đến hành vi phạm tội, cần trả lại cho bị cáo theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[10] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và gia đình thuộc diện nghèo, theo quy định tại Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo được miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào Khoản 1 Điều 194, Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999.

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 28/11/2017.

2. Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy một phong bì màu trắng các mép đều được dán kín có khối lượng 0,33 gam Heroine; trả lại cho bị cáo số tiền 320.000đ (ba trăm hai mươi nghìn đồng) theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 25/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuần Giáo.

3. Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Án phí: Miễn nộp toàn bộ tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

4. Căn cứ Khoản 1 Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (05/3/2018). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2018/HS-ST ngày 05/03/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:37/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về