Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 17/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 37/2018/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện K xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 129/2018/TLST-HNGĐ, ngày 06 tháng 7 năm 2018 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2018/QĐXX-ST ngày 28 tháng 8 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 21 ngày 12 tháng 9 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị V, sinh năm 1985; địa chỉ cư trú: Thôn L, xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên tòa.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn T, sinh năm 1984; địa chỉ cư trú: Thôn L, xã T, huyện K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 25/6/2018 và bản tự khai ngày 11/7/2018 chị V trình bày: Chị tự nguyện kết hôn với anh Phạm Văn T, thời gian năm 2006 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K. Nói chung vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2012 thì xảy ra mâu thuẫn, nên vợ chồng đã thuận tình ly hôn theo Quyết định công nhận sự thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 14/2012/QĐST-HNGĐ ngày 09/3/2012. Sau đó vợ chồng chị trở lại sống đoàn tụ và tiếp tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K năm 2014. Tuy nhiên trong quá trình sống chung mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ tháng 8/2017 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế; anh T chơi bời cờ bạc, không có trách nhiệm đến vợ con. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù chị và gia đình đã nhiều lần khuyên bảo anh T thay đổi cách sống để vợ chồng trở lại sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị bỏ về mẹ đẻ ở từ tháng 3 năm 2018 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Do tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị xin ly hôn anh T.

Về con chung: Anh chị có 03 con là Phạm Đăng K, sinh ngày 29/10/2007, Phạm Văn Đ, sinh ngày 12/7/2012 và Phạm Thành Đ1, sinh ngày 29/9/2014. Hiện cháu K đang do anh T nuôi dưỡng, cháu Đ và cháu Đ1 đang do chị nuôi dưỡng. Chị nhất trí để anh T tiếp tục nuôi dưỡng cháu K (trên cơ sở nguyện vọng của cháu K), chị xin tiếp tục nuôi dưỡng cháu Đ và cháu Đ1 đến khi các con đủ 18 tuổi; nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con; giữa chị và anh T tự thỏa thuận giao nhận với nhau, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì hiện nay chị làm nghề nông nghiệp, anh T làm nghề công nhân, thu nhập kinh tế của mỗi người hàng tháng khoảng 5.000.000 đồng – 6.000.000 đồng và cả hai vợ chồng đều có nơi ăn ở ổn định, đảm bảo đủ điều kiện để nuôi con.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh T vắng mặt, nhưng theo lời trình bày và yêu cầu của chị V. Tòa án đã xác minh và tống đạt trực tiếp giấy triệu tập; thông báo thụ lý vụ án; thông báo về việc thu thập được tài liệu, chứng cứ; thông báo về phiên họp và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp của Tòa án cho gia đình anh T và chính quyền địa phương để giao lại các văn bản tố tụng trên. Anh T đã nhận đầy đủ các văn bản tố tụng trên nhưng không đến Tòa án và Ủy ban nhân dân xã T để trình bày lời khai; tham gia phiên họp và hòa giải; từ chối khai báo, vắng mặt không có lý do chính đáng. Sau đó Tòa án đã tống đạt trực tiếp và hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho gia đình anh T và Ủy ban nhân dân xã T để giao lại cho anh T. Anh T vẫn vắng mặt tại phiên tòa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Bị đơn không chấp hành đầy đủ nghĩa vụ quy định tại khoản 15, 16 Đ iều 70, khoản 1 Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án.

Về việc giải quyết vụ án:

Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu, chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét công khai và kết quả tranh tụng tại phiên tòa xét thấy:

1. Về tố tụng: Anh T là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

2. Về quan hệ hôn nhân: Chị V và anh T tự nguyện kết hôn lại năm 2014 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 8 năm 2017 phát s inh mâu thuẫn do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế; anh T chơi bời cờ bạc, không có trách nhiệm đến vợ con. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù chị và gia đình, thôn xóm đã nhiều lần khuyên giải để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 3 năm 2018 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị V xin ly hôn anh T là có cơ sở chấp nhận, nên xử cho chị V được ly hôn anh T là phù hợp.

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Đ iều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Xử cho chị Trần Thị V được ly hôn anh Phạm Văn T.

3. Về con chung: Anh chị có 03 con là Phạm Đăng K, sinh ngày 29/10/2007, Phạm Văn Đ, sinh ngày 12/7/2012 và Phạm Thành Đạt, Đ1 sinh ngày 29/9/2014; hiện nay chị V xin được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Đ và cháu Đ1; còn cháu Khoa có nguyện vọng được ở với anh T, cần chấp nhận.

Căn cứ vào Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; đề nghị Hội đồng xét xử: Giao cháu Phạm Đăng K, sinh ngày 29/10/2007 cho anh T nuôi dưỡng; giao cháu Phạm Văn Đ, sinh ngày 12/7/2012 và Phạm Thành Đ1, sinh ngày 29/9/2014 cho chị V nuôi dưỡng đến khi 03 cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị V và anh T đều đủ điều kiện kinh tế và chỗ ở ổn định để nuôi con, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

4. Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị V phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận đ ịnh:

[1] Về tố tụng: Anh T là bị đơn vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị V tự nguyện kết hôn lại với anh T năm 2014 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện K. Đánh giá chung vợ chồng sống hạnh phúc được khoảng 03 năm. Song trong thời gian sống chung mâu thuẫn phát sinh từ tháng 8 năm 2017 do phong cách sống không còn phù hợp, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế; anh T chơi bời cờ bạc, không có trách nhiệm đến vợ con. Vợ chồng thường xuyên xảy ra đánh cãi nhau. Mặc dù đã được gia đình, thôn xóm hòa giải nhiều lần để vợ chồng sống đoàn tụ nhưng không thành. Chị V bỏ về nhà mẹ đẻ ở từ tháng 3 năm 2018 đến nay, không ai quan tâm đến cuộc sống chung. Nay chị V xin ly hôn anh T là có cơ sở chấp nhận; nên xử cho chị V được ly hôn anh T là phù hợp.

[3] Về con chung: Anh chị có 03 con là Phạm Đăng K, sinh ngày 29/10/2007, Phạm Văn Đ, sinh ngày 12/7/2012 và Phạm Thành Đ1, sinh ngày 29/9/2014. Chị V xin được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Đ và cháu Đ1; còn cháu K có nguyện vọng ở với anh T được chấp nhận. Cần giao cháu K cho anh T nuôi dưỡng; giao cháu Đ và cháu Đ1 cho chị V nuôi dưỡng; đến khi 03 cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, chị V và anh T đều đủ điều kiện về kinh tế và chỗ ở ổn định đảm bảo để nuôi con, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị V được ly hôn anh Phạm Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Đăng K, sinh ngày 29/10/2007 cho anh T nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Giao cháu Phạm Văn Đ, sinh ngày 12/7/2012 và Phạm Thành Đ1, sinh ngày 29/9/2014 cho chị V nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, hai bên đều có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị V phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền   tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: AA.0006096 ngày 06 tháng 7 năm2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K. Chị V đã chịu đủ án phí dân sự sơ thẩm. Chị V có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Anh T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 17/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:37/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về