Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 06/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung vợ chồng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LÊ CHÂN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 37/2018/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON, CHIA TÀI SẢN CHUNG VỢ CHỒNG

Ngày 06 tháng 7 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Lê Chân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 70/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 46/2018/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1992; đăng ký thường trú tại: Số 10/2/37/109 A D, phường A D, Quận L C, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1990; đăng ký thường trú tại: Số 10/2/37/109 A D, phường A D, Quận L C, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, các lời khai của chị Nguyễn Thị Thu T có trong hồ sơ thể hiện:

Chị Nguyễn Thị Thu T và anh Nguyễn Minh T xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở tự nguyện vào năm 2011 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A D, quận L C, thành phố Hải Phòng ngày 24/02/2012.

Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn từ năm 2012, nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T chơi bời, không có trách nhiệm với gia đình, vợ con nên vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, cãi vã. Vợ chồng đang sống ly thân, không ai quan tâm đến ai về mọi mặt. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được hai bên gia đình động viên, khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Đến nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị T và anh T có 01 con chung tên là Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 29 tháng 8 năm 2012, nếu ly hôn chị T nhận tiếp tục nuôi con chung đến khi thành niên, về cấp dưỡng chị T tự thỏa thuận với anh T nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị T và anh T tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa anh Nguyễn Minh T vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập anh T và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh T nhưng anh T không có mặt tại Tòa án. Điều đó cho thấy anh T đã tự từ bỏ quyền cũng như không thực hiện nghĩa vụ của mình trước pháp luật, không còn quan tâm đến cuộc sống vợ chồng với chị T và việc nuôi dưỡng con chung.

Tại biên bản xác minh tại địa phương nơi cư trú của chị T và anh T có nội dung thể hiện: Cuộc sống chung của chị T và anh T có mâu thuẫn từ lâu, anh T là đối tượng nghiện ma túy, vợ chồng đã sống ly thân và không còn khả năng đoàn tụ hạnh phúc.

Kiểm sát viên tham gia phát biểu ý kiến tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định về trình tự thủ tục về pháp luật tố tụng tại phiên tòa; nguyên đơn chấp hành đúng các quy định về tố tụng, bị đơn không chấp hành các quy định về pháp luật tố tụng.

Về nội dung vụ án: Chị T và anh T lấy nhau có đăng ký kết hôn vì vậy hôn nhân của chị T và anh T là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần xử cho chị T được ly hôn anh T theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Chị T và anh T có 01 con chung Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 29 tháng 8 năm 2012, chị T nhận nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên, anh T không có ý kiến nên đề nghị xem xét giao con chung Nguyễn Tiến Đ cho chị T nuôi dưỡng.

Về tài sản chung: Chị T không có yêu cầu nên không xem xét.

Về án phí: Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận xét:

[1] Về tố tụng: Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và xác nhận tạm trú thể hiện: Anh Nguyễn Minh T, sinh năm 1990; đăng ký thường trú tại: Số 10/2/37/109 A D, phường A D, Quận L C, thành phố Hải Phòng. Căn cứ Điều 28, 35, 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án khởi kiện xin ly hôn giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thu T và anh Nguyễn Minh T thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn là anh Nguyễn Minh T vắng mặt không có lý do, mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai. Chị T cũng có đơn xin xét xử vắng mặt. Bởi vậy, căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Nguyễn Minh T và chị Nguyễn Thị Thu T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu T và anh Nguyễn Minh T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường A D, quận L C, thành phố Hải Phòng vào năm 2012 nên là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống: Chị T và anh T có nhiều mâu thuẫn do anh T không có trách nhiệm với gia đình, vợ con, bản thân là đối tượng nghiện ma túy, nên vợ chồng thường xuyên xảy ra xô xát, bất đồng. Hiện nay vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai về mọi mặt. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được hai bên gia đình động viên, khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Đến nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn mục đích hôn nhân không đạt được, quan hệ vợ chồng trên thực tế đã không còn tồn tại. Bởi vậy, chị T yêu cầu được ly hôn anh T là phù hợp với thực tế, cần được chấp nhận theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị T và anh T có 01 con chung tên là Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 29 tháng 8 năm 2012, nguyện vọng của chị T nếu ly hôn là xin nhận nuôi dưỡng con chung đến khi thành niên; anh T không có ý kiến gì và không đến Tòa án trình bày nguyện vọng quan điểm. Qua xác minh tổ dân phố cho biết anh T là đối tượng nghiện ma túy và tổ dân phố cũng có ý kiến, nếu vợ chồng ly hôn thì nên giao cháu Nguyễn Tiến Đ cho chị T nuôi dưỡng. Do vậy khi ly hôn cần giao con chung Nguyễn Tiến Đ cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại Điều 81,82,83 Luật Hôn nhân và gia đình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị T không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thu T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu T phải nộp 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28; 147; 227; 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các điều 51; 56; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chị Nguyễn Thị Thu T được ly hôn anh Nguyễn Minh T.

Về con chung: Giao con chung của chị Nguyễn Thị Thu T và Nguyễn Minh T tên là Nguyễn Tiến Đ, sinh ngày 29 tháng 8 năm 2012 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con do hai bên chị T và anh T tự thỏa thuận.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm con mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thu T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chị T đã nộp đủ số tiền án phí là 300.000đ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004927 ngày 12 tháng 02 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự quận Lê Chân.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 06/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung vợ chồng

Số hiệu:37/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Lê Chân - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về