Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 01/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 37/2018/HNGĐ-ST NGÀY 01/08/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 01 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 90/2018/TLST - HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2018 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/7/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Đinh Văn C, sinh năm 1973; có mặt

Địa chỉ: thôn Đ, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1976; có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

Nơi ĐKHKTT: thôn Đ, xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình.

Chỗ ở hiện nay: A 75- 6K/9 đường B, phường II, quận T, TP Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 07/5/2018 và trong quá trình xét xử, nguyên đơnanh Đinh Văn C trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Đinh Văn C và chị Nguyễn Thị H tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn vào ngày 15/02/1997 tại UBND xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn Đ xã Q huyện K tỉnh Thái Bình và sinh được 02 con. Năm 2007 vợ chồng cùng các con thuê trọ tại số nhà A 75- 6K/9 đường B, phường II, quận T, TP Hồ Chí Minh sinh sống và làm ăn. Đến tháng 8/2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do chị H nói với anh là chị H có tình cảm với người đàn ông khác, tháng 11/2016 chị H và con trai dọn sang phòng trọ khác ở không ở cùng phòng trọ với anh C nữa, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Đến tháng 01/2017 anh C đã bỏ về thôn Đ xã Q huyện K tỉnh Thái Bình sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay không quan tâm đến nhau. Nay anh xác định không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng với chị H được nữa, anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H.

- Về quan hệ con chung: Anh C và chị H có có 02 con chung là cháu Đinh Thị C1, sinh ngày sinh ngày 19/10/1997 hiện đã đi xây dựng gia đình và cháu Đinh Văn C2 sinh ngày 28/9/2008 hiện đang do chị H nuôi dưỡng. Ly hôn anh C có nguyện vọng để chị H tiếp tục nuôi cháu C2, nếu chị H không nuôi thì anh C đón cháu C2 về nuôi và anh C không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung: anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai ngày 14/6/2018, bị đơn là chị Nguyễn Thị H trình bày: về điều kiện, thời gian kết hôn cũng như quá trình chung sống đúng như anh C trình bày. Tháng 10/2016 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Sau đó anh C bỏ về quê Q sống cùng bố mẹ đẻ, vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay. Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, không quay trở về đoàn tụ với nhau được nữa nên chị hoàn toàn đồng ý ly hôn với anh C. Chị H và anh C có 02 con chung là cháu Đinh Thị C1, sinh ngày 19/10/1997 hiện đã đi xây dựng gia đình và cháu Đinh Văn C2 sinh ngày 28/9/2008 hiện đang ở cùng chị H. Ly hôn chị H có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu C2 và không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị H và anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiêntoà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về thủ tục tố tụng:

[1] Về thủ tục tố tụng: Xét thấy, anh Đinh Văn C và chị Nguyễn Thị H có sổ tạm trú tại phường II quận T thành phố Hồ Chí Minh, chị H và anh C cùng có đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương giải quyết vụ án, vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung vụ án:

 [3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, anh Đinh Văn C kết hôn với chị Nguyễn Thị H trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện K, tỉnh Thái Bình là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2016 nên anh C đã bỏ về nhà ở thôn Đ xã Q sinh sống từ đó đến nay, vợ chồng không liên lạc và không quan tâm đến nhau. Nay anh C xin ly hôn và chị H cũng đồng ý ly hôn vì cả hai vợ chồng đều cảm thấy không còn tình cảm gì với nhau nữa. Xét thấy, tình trạng hôn nhân của anh C và chị H là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải chấp nhận xử cho anh C được ly hôn chị H là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình

 [4] Về quan hệ con chung: Anh C và chị H có 02 con chung là cháu Đinh Thị C1, sinh ngày sinh ngày 19/10/1997 hiện đã đi xây dựng gia đình và cháu Đinh Văn C2 sinh ngày 28/9/1008 hiện đang do chị H nuôi dưỡng. Ly hôn anh C có nguyện vọng để chị H tiếp tục nuôi cháu C2, chị H cũng có nguyện vọng nuôi cháu C2 và cháu C2 có đơn đề nghị được ở với chị H. Vì vậy, để đảm bảo cho cháu C2 ăn ở và học tập ổn định cần chấp nhận ý kiến của anh C và chị H là giao con chung Đinh Văn C2 sinh ngày 28/9/2008 cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung.

[5] Về quan hệ tài sản chung: Anh C và chị H đều không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Về án phí: Anh C phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014;

- Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyđịnh về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Đinh Văn C được ly hôn chịNguyễn Thị H.

2. Về quan hệ con chung: Xử giao con chung là Đinh Văn C2 sinh ngày 28/9/2008 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Chị H không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con, Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Anh Đinh Văn C phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000 đồng, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0001050. ngày 13/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Anh Đinh Văn C đã nộp xong án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Về quyển kháng cáo: Anh C có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 37/2018/HNGĐ-ST ngày 01/08/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:37/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về