Bản án 371/2019/HS-PT ngày 20/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 371/2019/HS-PT NGÀY 20/11/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 20 tháng 11 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 368/2019/TLPT-HS ngày 29 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo Lâm Quang Đ, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2019/HS-ST ngày 17/09/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

-Bị cáo kháng cáo: Lâm Quang Đ, sinh ngày 10/8/1962; tại Đà Nẵng. Nơi cư trú: thôn C, xã H, huyện H, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lâm Quang C1 và bà Phan Thị L; có vợ tên Nguyễn Thị S và 03 con; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: Ngày 16-4-1994, bị Tòa án nhân tỉnh Quảng Nam -Đà Nẵng xử phạt 01 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân” và 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản công dân”, bị bắt tạm giam ngày 11-8-2018, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Vũ Cát T, Luật sư của Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên TT -thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Thời gian từ tháng 10 năm 2016 đến tháng 02 năm 2018, Lâm Quang Đ nói dối với nhiều người về việc bản thân có khả năng xin việc cho người khác vào biên chế Công an thành phố Đà Nằng, Sân bay quốc tế Đà Nẵng và nhiều Cơ quan nhà nước, doanh nghiệp khác; ngoài ra, nếu ai giới thiệu được cho người thân, bạn bè để Đ xin việc thì Đ hứa hẹn sẽ trích lại phần trăm (tiền hoa hồng) cho người giới thiệu. Để tạo sự tin tưởng cho bị hại và người môi giới, ban đầu bị cáo Đ chỉ nhận từ khoảng 50% số tiền thỏa thuận xin việc và hồ sơ xin việc của họ, khi có việc mới phải giao đủ tiền và khi nhận tiền thì Đ đều viết giấy mượn tiền; cũng như cam kết sẽ có việc làm (kết quả) trong thời hạn từ 01 đến 06 tháng; nếu không xin được việc thì Đ sẽ hoàn trả lại đủ tiền đã nhận. Tin tưởng vào lời nói của Đ, nhiều người đã đưa tiền để nhờ Đ xin việc; sau khi nhận tiền thì Đ không liên hệ xin việc cho bất kỳ ai và chiếm đoạt tiền đã nhận, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Chiếm đoạt của ông Lê Trung B số tiền 220.000.000 đồng. Đầu tháng 10 năm 2016, qua sự giới thiệu của người quen, ông Lê Trung B nhờ Lâm Quang Đ xin cho con trai là Lê Trung H1 vào học trung cấp Cảnh sát với chi phí xin việc là 400.000.000 đồng. Ngày 12-10-2016, ông Lê Trung B đưa 20.000.000 đồng tiền mặt cho Lâm Quang Đ; đến ngày 19-10-2018 tiếp tục chuyển cho Đ 200.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền Đ không xin việc cho con ông B mà sử dụng tiêu xài hết; sau này, khi biết Đ không xin được cho con đi học nên ông B đòi lại tiền nhiều lần thì Đ có trả được 10.000.000 đồng.

Vụ thứ hai: Chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị T1 số tiền 865.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị T1 đã gặp Lâm Quang Đ nhờ xin việc cho người quen. Từ tháng 12-2016 đến tháng 12-2017, bà T1 đã nhận tiền từ nhiều người quen có nhu cầu xin việc để đưa cho Đ xin việc làm cho họ, cụ thể như sau: Ngày 15-12-2016 bà T1 đưa cho Đ 85.000.000 đồng để Đ xin cho Phan Hữu P vào làm việc tại Bộ phận sắp xếp hành lý Sân bay quốc tế Đà Nẵng; ngày 16-10-2017 bà T1 đưa cho Đ 200.000.000 đồng để Đ xin cho Đỗ Trọng Y (đang đi nghĩa vụ Công an) được vào biên chế Công an thành phố Đà Nằng; tháng 11-2017, bà T1 đưa cho Đ 400.000.000 đồng để Đ xin cho Bùi Phúc Xuân vào biên chế Công an thành phố Đà Nẵng; tháng 12-2017, bà T1 đưa cho Đ 180.000.000 đồng để Đ xin cho Đào Duy H2 vào làm việc tại Bộ phận an ninh Sân bay quốc tế Đà Nẵng. Tổng số tiền Đ nhận từ bà T1 là 865.000.000 đồng để xin việc cho 04 người nói trên nhưng đã bị Đ chiếm đoạt rồi sử dụng tiêu xài cá nhân hết.

Khi nhận thấy Đ không xin được việc làm như đã hứa, bà T1 đã đòi lại tiền thì Đ đã trả lại cho bà T1 được 160.000.000 đồng. Ngày 21-12-2017, Đ viết Giấy cam kết trả nợ cho bà T1 với tổng số tiền còn lại đã đối chiếu là 705.000.000 đồng. Ngày 05-11-2018, bà Nguyễn Thị T1 gửi đơn tố cáo Lâm Quang Đ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và yêu cầu Đ trả lại số tiền đã chiếm đoạt. Về phần bà T1 đã thỏa thuận trả tiền riêng với từng người đã đưa tiền nên không có khiếu nại. Vụ thứ ba: Chiếm đoạt của bà Đoàn Thị H4 số tiền 353.600.000 đồng. Qua người quen giới thiệu, bà Đoàn Thị H4 đã gặp Lâm Quang Đ để nhờ xin cho con là Trần Mạnh T2 được vào biên chế Công an thành phố Đà Nẵng với giá thỏa thuận là 300.000.000 đồng.

Ngày 13-3-2017, bà H4 đưa cho Đ 150.000.000 đồng; đến ngày 16-3-2017, Đ điện thoại nói với bà H4 nội dung: “Mấy bác ở Bộ Công an đồng ý rồi; chuyển cho Đ số tiền còn lại để gửi ra Hà Nội”, nên bà H4 đã giao thêm cho Đ 150.000.000 đồng và được Đ hứa đầu tháng 4-2017 sẽ có quyết định. Tuy nhiên, sau đó vẫn không có quyết định tuyển dụng vào biên chế cho Trần Mạnh T2 thì Đ lại hứa hẹn chờ đến đợt APEC vì sẽ thiếu quân. Đến tháng 11-2017, Đ điện thoại cho bà H4 nói phải nộp lại số tiền phụ cấp 3 năm mà T2 đã nhận khi ra quân là 53.600.000 đồng, nên sau đó bà H4 cũng giao số tiền này cho Đ; toàn bộ tiền trên bị cáo Đ tiêu xài hết. Ngày 28-8-2018, bà Đoàn Thị H4 gửi đơn tố cáo Lâm Quang Đ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và yêu cầu Đ trả lại số tiền đã chiếm đoạt.

Vụ thứ tư: Chiếm đoạt của ông Lê Đình H5 số tiền 280.000.000 đồng. Qua sự giới thiệu của ông Lê Tiến H6, ông Lê Đình H5 đã nhờ Đ xin cho con là Lê Đình Q được vào biên chế Công an thành phố Đà Nẵng với giá thỏa thuận là 500.000.000 đồng.Vào các ngày 21-4-2017 và 24-5-2017, ông H5 đã đưa cho Đ tổng cộng 280.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền thì Đ có cho ông Lê Tiến H6 50.000.000 đồng, số tiền còn lại Đ tiêu xài hết. Ngày 09-02-2018, gia đình Lâm Quang Đ có trả lại cho ông H5 20.000.000 đồng. Ngày 15-10-2018, ông Lê Đình H5 gửi đơn tố cáo Lâm Quang Đ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và yêu cầu Đ trả lại số tiền đã chiếm đoạt.

Vụ thứ năm: Chiếm đoạt của bà Phan Thị P số tiền 100.000.000 đồng. Bà Phan Thị P đã nhờ Đ xin cho con là Lê Tiến Hoàng vào biên chế Công an thành phố Đà Nẵng với giá thỏa thuận là 380.000.000 đồng. Lúc này Đ nói với bà P là còn hai suất biên chế Công an thành phố Đà Nẵng nữa, nếu bà P giới thiệu được cho người khác để Đ xin việc thì sẽ trích tiền công giới thiệu cho bà P. Vào các ngày 12-10-2017 và 28-10-2017, bà P đã đưa cho Đ tổng cộng 100.000.000 đồng; toàn bộ số tiền này Đ đã tiêu xài hết. Ngày 07-11-2018, bà Phan Thị P gửi đơn tố cáo Lâm Quang Đ.

Vụ thứ sáu: Chiếm đoạt của bà Hà Thị X số tiền 200.000.000 đồng.

Qua sự giới thiệu của bà Phan Thị P, thì bà Hà Thị X đã nhờ Đ xin cho con là Nguyễn Hà Hữu L1 vào biên chế Công an thành phố Đà Nẵng với giá thỏa thuận là 400.000.000 đồng. Ngày 05-10-2017, bà X đã đưa cho Đ số tiền 200.000.000 đồng; sau khi nhận tiền của bà X thì Đ có cho bà Phan Thị P 20.000.000 đồng; còn lại Đ tiêu xài hết. Ngày 20-3-2018, bà Hà Thị X gửi đơn tố cáo Lâm Quang Đ.

Vụ thứ bảy: Chiếm đoạt của ông Trương Thanh Tr1 số tiền 200.000.000 đồng. Qua sự giới thiệu của bà Phan Thị P, ông Trương Thanh Tr1 đã gặp nhờ Đ xin cho em vợ là Ngô Văn Quỳnh D vào biên chế Công an thành phố Đà Nẵng với giá thỏa thuận là 400.000.000 đồng. Ngày 25-10-2017, ông Tr1 đã đưa cho Đ số tiền 200.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền của ông Trí thì Đ có cho bà Phan Thị P 20.000.000 đồng; số tiền còn lại Đ tiêu xài hết. Ngày 28-8-2018, ông Trương Thanh Tr1 gửi đơn tố cáo Lâm Quang Đ.

Vụ thứ tám: Chiếm đoạt của ông Võ Văn Tr2 số tiền 100.000.000 đồng. Qua sự giới thiệu của bà Nguyễn Thị Phương Th và bà Phan Thị P thì ông Võ Văn Tr2 đã gặp nhờ Đ xin cho con là Võ Nguyễn Sỹ H3 vào biên chế Công an thành phố Đà Nẵng với giá thỏa thuận giá là 450.000.000 đồng. Ngày 18-9-2017, ông Tr2 đã đưa cho Đ số tiền 100.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền này Đ đã tiêu xài hết. Ngày 31-8-2018, ông Võ Văn Tr2 gửi đơn tố cáo Lâm Quang Đ về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và yêu cầu Đ trả lại số tiền đã chiếm đoạt.

Vụ thứ chín: Chiếm đoạt của ông Nguyễn T3 số tiền 221.500.000 đồng. Ông Nguyễn T3 đã nhờ Đ xin cho con là Nguyễn Đức Nh vào biên chế Công an thành phố Đà Nẵng; ông Trung và Đ thỏa thuận giá là 300.000.000 đồng. Từ ngày 27-8-2017 đến ngày 29-11-2017, ông T3 đã đưa cho Đ nhiều lần với tổng số tiền 221.500.000 đồng; toàn bộ số tiền này Đ đã tiêu xài hết. Ngày 21-3-2018, ông Nguyễn T3 gửi đơn tố cáo Lâm Quang Đ.

Vụ thứ mười: Chiếm đoạt của bà Đặng Thị N1 số tiền 40.000.000 đồng. Bà Đặng Thị N1 nhờ Đ xin vào làm việc tại Ủy ban nhân dân huyện H, thành phố Đà Nẵng; bà N1 và Đ thỏa thuận giá là 150.000.000 đồng.Vào các ngày 31-12-2017 và 10-01-2018, bà N1 đã đưa cho Đ tổng cộng 40.000.000 đồng; toàn bộ số tiền này Đ đã tiêu xài hết. Ngày 19-10-2018, bà Đặng Thị N1 gửi đơn tố cáo Lâm Quang Đ.

Vụ thứ mười một: Chiếm đoạt của ông Hồ Đức Tr2 số tiền 20.000.000 đồng. Qua sự giới thiệu của bà Lê Thị Th, thì ông Hồ Đức Tr2 nhờ Đ xin vào làm việc tại Bộ phận hải quan Sân bay quốc tế Đà Nẵng; ông Trung và Đ thỏa thuận giá là 220.000.000 đồng. Ngày 26-01-2018, ông Tr2 đã đưa cho Đ 20.000.000 đồng; toàn bộ số tiền này Đ đã tiêu xài hết. Ngày 20-8-2018, ông Hồ Đức Tr2 gửi đơn tố cáo Lâm Quang Đ.

Vụ thứ mười hai: Chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Phương Th số tiền 470.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị Phương Th nhờ Đ xin việc cho nhiều người thân, vào các ngày 09 và 10 tháng 9-2017, bà Thảo đưa cho Đ 120.000.000 đồng để xin việc cho 06 người (chưa rõ lai lịch); ngày 12-9-2017, bà Thảo đưa cho Đ 50.000.000 đồng để xin cho Trần Xuân Hào vào làm việc tại Ủy ban nhân dân huyện H, thành phố Đà Nẵng; vào các ngày 25-9-2017 và 16-10-2017, bà Thảo đưa cho Đ tổng cộng 250.000.000 đồng để xin cho cháu của ông Lê Văn Hùng vào biên chế Công an thành phố Đà Nẵng; ngày 27-9-2017, bà Thảo đưa cho Đ 50.000.000 đồng để xin cho Nguyễn Quốc Huy vào biên chế Công an thành phố Đà Nẵng. Toàn bộ số tiền nhận từ bà Thảo thì Đ đã tiêu xài hết. Ngày 07-9-2018, bà Nguyễn Thị Phương Th gửi đơn tố cáo Lâm Quang Đ. Các trường hợp mà bà Thảo nhận tiền thì bà Thảo đã thỏa thuận trả tiền riêng với từng người đã đưa tiền nên không có khiếu nại.

Tng giá trị tài sản Lâm Quang Đ chiếm đoạt của những người bị hại là 3.070.100.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 57/2019/HS-ST ngày 17/9/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, g khoản 1 Điều 52; điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự; tuyên bố bị cáo Lâm Quang Hiệu phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; xử phạt bị cáo Lâm Quang Đ 14 (Mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 11-8-2018.

Ngoài ra bản án còn tuyên về phần xử lý vật chứng, các biện pháp tư pháp, trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo Ngày 22/09/2019 Bị cáo Lâm Quang Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thống nhất nội dung vụ án như bản án sơ thẩm và giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa có ý kiến Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và đề nghị không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ngưi bào chữa cho bị cáo cho rằng đối với tình tiết tăng nặng “phạm tội có tình chất chuyên nghiệp” là không đủ căn cứ áp dụng bởi bị cáo có nghề nghiệp rõ ràng nhưng vì bị phá sản nên số tiền chiếm đoạt dùng để trả nợ chứ không hề xem việc lừa đảo là nghề và sinh sống bằng nghề ấy; bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên đề nghị áp dụng thêm Điều 54 của Bộ luật Hình sự giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Từ tháng 10-2016 đến tháng 02-2018, bị cáo Đ đã có hành vi nói dối với nhiều người về bản thân có khả năng xin việc làm cho người khác vào biên chế Công an thành phố Đà Nẵng, Sân bay quốc tế Đà Nẵng và nhiều cơ quan nhà nước, doanh nghiệp khác trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cũng như tỉnh Quảng Nam. Với thủ đoạn nói trên, Lâm Quang Đ đã chiếm đoạt của ông Lê Trung B số tiền 220.000.000 đồng; chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị T1 số tiền 865.000.000 đồng; chiếm đoạt của bà Đoàn Thị H4 số tiền 353.600.000 đồng; chiếm đoạt của ông Lê Đình H5 số tiền 280.000.000 đồng; chiếm đoạt của bà Phan Thị P số tiền 100.000.000 đồng; chiếm đoạt của bà Hà Thị X số tiền 200.000.000 đồng; chiếm đoạt của ông Trương Thanh Tr1 số tiền 200.000.000 đồng; chiếm đoạt của ông Võ Văn Tr số tiền 100.000.000 đồng; chiếm đoạt của ông Nguyễn T3 số tiền 221.500.000 đồng; chiếm đoạt của bà Đặng Thị N1 số tiền 40.000.000 đồng; chiếm đoạt của ông Hồ Đức Tr2 số tiền 20.000.000 đồng và chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Phương Th số tiền 470.000.000 đồng. Tổng số tiền bị cáo Lâm Quang Đ chiếm đoạt của những người bị hại là 3.070.100.000 đồng.

Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định bị cáo Lâm Quang Đ phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lâm Quang Đ thì thấy bị cáo đã 12 lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” và “Phạm tội 02 lần trở lên”, quy định tại các điểm b, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Quan điểm của Luật sư bào chữa cho rằng không đủ điều kiện áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp”, tuy nhiên thấy rằng bị cáo thực hiện hành vi lừa đảo trong thời gian dài đối với nhiều người, bị cáo đã sử dụng nguồn tiền chiếm đoạt để trang trãi cho cuộc sống của mình, diễn biến của hành vi phạm tội thể hiện rõ “có tính chất chuyên nghiệp” nên cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng này là đúng pháp luật.

Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; khắc phục được một phần hậu quả; bị cáo là con của Liệt sĩ Lâm Quang C1 và gia đình có công với cách mạng theo quy định tại điểm b, s, x khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất và mức độ của hành vi phạm tội, áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo 14 năm tù là có cơ sở và đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ gì mới nên không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

[3] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo có kháng cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

[4] Các quyết định khác còn lại của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lâm Quang Đ về xin giảm nhẹ hình phạt, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

2. Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, g khoản 1 Điều 52; điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: tuyên bố bị cáo Lâm Quang Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lâm Quang Đ 14 (Mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 11-8-2018.

3. Án phí hình sự phúc thẩm bị cáo Đ phải chịu là 200.000 đồng.

4. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực từ ngày hết thời hiệu kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 371/2019/HS-PT ngày 20/11/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:371/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về