TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 370/2018/HS-PT NGÀY 14/06/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 14 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội xét xử công khai, phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 968/2017/TLPT-HS, ngày 21/12/2017, do có kháng cáo của bị cáo Sồng A T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2017/HSST ngày 11 tháng 5 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3212/2018/QĐXXPT-HS ngày 25/5/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
* Bị cáo có kháng cáo:
Sồng A T, tên gọi khác: (Sộng Bả T), sinh năm 1998 tại Mường H, Sông M, Sơn La; nơi ĐKNKTT: Bản Bua H, xã Mường H, huyện Sông M, tỉnh Sơn La; trình độ văn hóa: 5/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Mông; đảng phái, đoàn thể: Không; con ông: Sồng A P và bà Giàng Thị S, có vợ: Giàng Thị S, có 01 con; tiền sự, tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/12/2016 cho đến nay; có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Bá L - thuộc Đoàn luật sư tỉnh Sơn La; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo bản cáo trạng và bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 10 giờ 20 phút ngày 16/12/2016, tổ công tác phòng PC47 Công an tỉnh Sơn La phối hợp với Đồn công an Nà Ơ, huyện Mai S làm nhiệm vụ trên Quốc lộ 4G thuộc địa phận xã Nà Ơ, huyện Mai S, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang Sồng A T trú tại bản Hin, Mường H, Sông M, Sơn La đang vận chuyển trái phép chất ma túy trên xe ô tô khách BKS: 26K – 7658 chạy hướng Sông M- Sơn La. Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Sồng A T.
Vật chứng thu giữ: 10 cục nhựa thực vật màu nâu đen; 01 gói chất bột màu trắng Sồng A T khai là thuốc phiện và hêrôin; 200.000 VNĐ; 01 điện thoại di động.
Ngày 16/12/2016, Cơ quan cảnh sát điều tra (PC47) Công an tỉnh Sơn La thành lập hội đồng mở niêm phong cân tịnh, xác định trọng lượng, trích mẫu trưng cầu giám định vật chứng thu giữ của Sồng A T: 10 cục nhựa thực vật màu nâu có tổng trọng lượng 2.716,22 gam, trích 20 gam làm mẫu giám định ký hiệu T1A đến T10A; 01 gói nilon chất bột màu trắng có trọng lượng 49,81 gam, trích 01 gam ký hiệu T11A gửi phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giámđịnh chất ma túy.
Kết luận giám định số: 85/KLMT, ngày 22/12/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: 10 mẫu gửi giám định ký hiệu T1A đến T10A đều là chất ma túy, loại thuốc phiện; mẫu gửi giám định ký hiệu T11A là chất ma túy, loại chất hêrôin.
Quá trình điều tra bị cáo khai nhận: Khoảng 6h ngày 16/12/2016 Sồng A T đang ăn sáng gần khu vực bến xe khách huyện Sông M. T gặp một người đàn ông (không quen biết) đến đặt vấn đề thuê T vận chuyển khoảng 03 kg thuốc phiện và 01 ít hêrôin ra khu vực ngã ba Mồ C, thành phố Sơn La xuống xe đứng đợi, xẽ có người đến nhận ma túy và trả công cho T 3.000.000 VNĐ. T đồng ý, người đàn ông đưa cho T một ba lô bên trong đựng ma túy, T lên xe khách BKS: 26K – 7658 đi từ Sông M ra thành phố Sơn La. Khi xe đi đến địa phận xã Nà Ơ, Mai S thì bị tổ công tác kiểm tra phát hiện bắt quả tang.
Tại bản cáo trạng số: 375/VKS – P1, ngày 26/4/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố bị cáo Sồng A T về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm a khoản 4 điều 194 Bộ luật hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 87/2017/HSST ngày 11/5/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Sồng A T, tên gọi khác (Sộng Bả T) phạm tội Vận chuyển trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Sồng A T 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (16/12/2016).
Ngoài ra Tòa án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 24/5/2017, bị cáo Sồng A T kháng cáo xin giảm hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Sồng A T giữ nguyên kháng cáo và khai nhận thành khẩn hành vi phạm tội, bị cáo cho rằng việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” là đúng pháp luật, nhưng mức hình phạt 20 năm tù là quá nặng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho bị cáo với lý do: Bị cáo đã khai báo thành khẩn hành vi phạm tội, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ già, vợ không có việc làm ổn định và phải nuôi con nhỏ.
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa: Sau khi phân tích hành vi phạm tội của bị cáo xác định việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng pháp luật, với số lượng ma túy bị cáo vận chuyển trái phép là rất lớn; do vậy mức hình phạt 20 năm tù là phù hợp. Về áp dụng pháp luật: Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm a khoản 4 Điều 194 Bộ Luật hình sự 1999 là chưa phù hợp mà cần áp dụng điểm h khoản 4 Điều 194 Bộ Luật hình sự 1999, nên cần sửa về áp dụng pháp luật và bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên quyết định về hình phạt tù của bản án sơ thẩm.
* Quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo Sồng A T: Xem xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo thấy rằng : Về tội danh bị cáo Sồng A T là vận chuyển trái phép chất ma túy là phù hợp, tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm quyết định xử phạt bị cáo mức hình phạt 20 năm tù là quá nặng vì cần đánh giá áp dụng tình tiết giảm nhẹ như khai báo thành khẩn hành vi phạm tội. Khi phạm tội bị cáo tuổi đời còn trẻ, là người dân tộc ít người, hiểu biết pháp luật rất hạn chế, phạm tội lần đầu do hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên vận chuyển ma túy thuê để lấy tiền công, thực tế chưa được hưởng lợi, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt tù cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Đơn kháng cáo của các bị cáo Sồng A T trong hạn luật định được xem xét theo thủ tục xét xử phúc thẩm.
Tại cơ quan điều tra, phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, bị cáo Sồng A T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như quy kết của Tòa án cấp sơ thẩm. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp tang vật thu giữ và với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; đủ cơ sở kết luận: Ngày 16/12/2016, tại khu vực Nà Ơ, huyện Mai S, tỉnh Sơn La, Sồng A T bị phát hiện, bắt quả tang khi đang vận chuyển trái phép 2.716,22 gam thuốc phiện và 49,81 gam Hêroin (Quy đổi 49,81 gam Hêroin bằng 2.490,5 gam thuốc phiện). Tổng trọng lượng bị cáo T vận chuyển trái phép thuê là 5.206,72 gam thuốc phiện nhằm mục đích để hưởng tiền ông 3.000.000 đồng.
Với hành vi phạm tội nêu trên, Toà án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Sồng A T về tội: “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 4 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, không chỉ xâm phạm đến chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy mà còn gây nguy hại lớn cho xã hội và con người, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Do đó, phải xử phạt thật nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo thấy rằng : Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, xác định đúng số lượng ma tuý bị cáo vận chuyển trái phép, cũng như xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ khai báo thành khẩn hành vi phạm tội. Khi phạm tội bị cáo tuổi đời còn trẻ, hiểu biết pháp luật hạn chế, là người dân tộc ít người. Với số lượng ma túy bị cáo vận chuyển trái phép tổng số 5.206,72 gam là rất lớn, hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định xử phạt bị cáo mức hình phạt 20 năm tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng hình phạt bổ sung là đã có sự chiếu cố xem xét có lợi cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, Hội đồng xét xử thấy không có căn cứ để xem xét chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Sồng A T, cần giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm, điều này phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa.
Về áp dụng pháp luật: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa đề nghị: Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm a khoản 4 Điều 194 Bộ Luật hình sự 1999 là chưa phù hợp, cần áp dụng điểm h khoản 4 Điều 194 Bộ Luật hình sự 1999. Tuy nhiên cũng xét thấy, cho dù có thay đổi điểm của điều luật thì cũng không làm thay đổi định khung của điều luật, cũng như không làm ảnh hưởng đến mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định. Do đó để ổn định bản án, có thể giữ nguyên về việc áp dụng pháp luật cũng không làm thay đổi bản chất của vụ án.
Sai sót của bản án hình sự sơ thẩm: Phần án phí hình sự sơ thẩm, thành phần Hội đồng xét xử vụ án bị cáo Sồng A T là 5 thành viên, nhưng biên bản nghị án biểu quyết phần án phí hình sự sơ thẩm 3/3 là sai, đồng thời biên bản nghị án có xem xét về án phí hình sự sơ thẩm đã ghi là 200.000 đồng, quyết định của bản án sơ thẩm về án phí lại không tuyên là sai, nhưng không bị kháng nghị, thiếu sót này là ngoài phạm vi xét xử phúc thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm cần nghiêm túc rút kinh nghiệm.
Bị cáo kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 355; 356 Bộ luật tố tụng hình sự;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Sồng A T, tên gọi khác (Sộng Bả T); giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số: 87/2017/HSST ngày 11 tháng 5 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La.
- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Sồng A T 20 (hai mươi) năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”, thời hạn thi hành án phạt tù tính từ ngày 16/12/2016.
2. Án phí: Bị cáo Sồng A T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 370/2018/HSPT ngày 14/06/2018 về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 370/2018/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/06/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về