Bản án 367/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 367/2019/HS-ST NGÀY 07/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 339/2019/TLST-HS ngày 30 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 381/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:

1. Lý Cẩm T (tên gọi khác D), sinh năm 1993 tại tỉnh K; thường trú: Ấp A, xã V, huyện G, tỉnh K; nghề nghiệp: Lao động tự do (nhân viên karaoke); trình độ học vấn: 11/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Khơ me; tôn giáo: Không; con ông Lý Thanh T, sinh năm 1965 (chết) và bà Thị Mỹ Đ, sinh năm 1965; có 01 em ruột, sinh năm 1997; chồng tên Danh Nh, sinh năm 1995 (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 05/6/2019, có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Thanh Q, sinh năm 1997 tại tỉnh A; thường trú: Ấp B, xã B, huyện Ch, tỉnh A; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; con ông Phạm Văn L, sinh năm 1965 và bà Bùi Thị B, sinh năm 1967; có 02 anh ruột, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 05/6/2019, có mặt tại phiên tòa.

3. Trần Văn Kh1, sinh năm 1997 tại tỉnh A; thường trú: Ấp B, xã B, huyện Ch, tỉnh A; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ học vấn: 8/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Hòa Hảo; con ông Trần Thanh H, sinh năm không rõ và bà Lê Thị L, sinh năm không rõ; có 03 anh em ruột, lớn sinh năm 1992, nhỏ sinh năm 2000; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 05/6/2019, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lê Trọng Kh2, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn 9, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Th; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Lê Thị Sa L, sinh năm 2004; vắng mặt.

2. Vi Thị M, sinh năm 1992; vắng mặt.

3. Lê Sỹ A, sinh năm 1997; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lý Cẩm T, Trần Văn Kh1, Phạm Thanh Q, Lê Thị Sa L và Lê Sỹ A là bạn bè mới quen biết nhau ngoài xã hội. Lý Cẩm T làm nghề tiếp viên Karaoke tự do và thuê phòng 125 nhà nghỉ Ph, khu phố T, phường T, thị xã D. Ngày 05/6/2019 T rủ Kh1, Q, L và An đến phòng của mình chơi. Đến khoảng 07 giờ cùng ngày Lem và An đến phòng của T thì thấy Kh1 và Q đang hút ma túy nên cùng vào sử dụng;

Khoảng 11 giờ cùng ngày Lý Cẩm T đưa 01 bịch nylon miệng kéo dính bên trong có 04 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, 01 gói nylon chứa chất kết tinh màu hồng, 01 gói nylon chứa chất màu hồng cho Trần Văn Kh1 giữ dùm, Kh1 để bịch ma túy vào rổ trên bàn gỗ, T đi sang phòng 108 nhà nghỉ Ph nói chuyện với Lê Trọng Kh2.

Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, Công an phường T kiểm tra hành chính phòng 125 nhà nghỉ Ph. Lúc này Kh1 giữ cửa chính để cho L và Q dọn dẹp cất giấu ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy. L lấy ma túy trên bàn đưa cho Q cất giấu vào sau tấm kính trong nhà vệ sinh. Sau khi cất giấu xong, Kh1 mở cửa cho Công an vào kiểm tra, qua kiểm tra phát hiện có ma túy nên lập biên bản người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng. Trong khi đang lập biên bản thì Lê Cẩm T đi về phòng 125 nên cơ quan Công an tạm giữ để điều tra.

Đối với Lê Sỹ A nằm ngủ trong phòng 125 từ sáng cho đến khi Công an vào kiểm tra, A không biết có cất giấu ma túy trong phòng nên không xử lý. Đối với Lê Thị Sa L sinh ngày 23/02/2004 chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự.

Vật chứng vụ án: 04 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, 01 gói nylon chứa chất kết tinh màu hồng, 01 gói nylon chứa chất màu hồng, 01 cái nỏ bằng thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy đá).

Căn cứ Kết luận giám định số 441/MT-PC09 ngày 13/6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận:

- Mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 1,3240 gam (M1); 0,9354gam (M2); 0,3639gam (M3); 0,1117gam (M4), loại Methamphetamine.

- Mẫu tinh thể lẫn chất màu đỏ, chất màu đỏ gửi giám định là ma túy, có khối lượng: 0,3064gam (M5); 0,0570gam (M6), loại Methamphetamine. Tổng trọng lượng: 3,0984 gam.

Lý Cẩm T khai nhận số ma túy có trong phòng 125 là do Lê Trọng Kh2 cho để sử dụng, tuy nhiên Lê Trọng Kh2 không thừa nhận nên không có căn cứ để xử lý.

Tại cáo trạng số 363/CT–VKS ngày 30 tháng 9 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Lý Cẩm T, Phạm Thanh Q và Trần Văn Kh1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lý Cẩm T mức án từ 02 năm đến 03 năm tù; Phạm Thanh Q mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; Trần Văn Kh1 mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 01 gói nylon đã niêm phong bên trong chứa 3,0984 gam ma túy Methamphetamine vật hoàn lại sau giám định; 01 cái nỏ bằng thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy đá).

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 12 giờ, ngày 05/6/2019 Công an phường Tân Bình kiểm tra hành chính nhà nghỉ Ph thuộc khu phố T, phường T, thị xã D, khi kiểm tra phòng 125 phát hiện có ma túy nên tiến hành lập biên bản quả tang, thu giữ vật chứng để xử lý theo quy định.

Hành vi của các bị cáo Lý Cẩm T, Phạm Thanh Q và Trần Văn Kh1 tàng trữ 01 gói ma túy, loại Methamphetamine, trọng lượng 3,0984 gam để sử dụng, đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số 363/CT-VKS ngày 30 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có. Tuy nhiên bị cáo Lý Cẩm T là người rủ rê lôi kéo các bị cáo khác tham gia cùng thực hiện tội phạm nên phải chịu hình phạt cao hơn các bị cáo khác.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo chưa có tiền án tiền sự.

[7] Xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 3,0984 gam, loại Methamphetamine là vật cấm lưu thông, 01 cái nỏ bằng thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy đá) cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Lý Cẩm T, Phạm Thanh Q và Trần Văn Kh1 phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lý Cẩm T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2019.

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2019. Xử phạt bị cáo Trần Văn Kh1 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2019.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bỳ có niêm phong chứa Methamphetamine, trọng lượng sau giám định là 2,4718gam; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/9/2019, bút lục 163).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Lý Cẩm T, Phạm Thanh Q, Trần Văn Kh1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 367/2019/HS-ST ngày 07/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:367/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về