Bản án 366/2018/HNGĐ-ST ngày 01/08/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 366/2018/HNGĐ-ST NGÀY 01/08/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 01-8-2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 256/2018/TLST-HNGĐ ngày 12-6-2018 về việc “Ly hôn và giải quyết con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 11-7-2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Dương Thị T, sinh năm 1983Địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú: Số nhà  48/21 T, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định

Nơi cư trú: Xóm Đ, xã N, huyện T, tỉnh Bắc Giang

2. Bị đơn: Anh Trần Trung Hiếu, sinh năm 1978

Nơi cư trú: Số nhà 48/21 T, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định

Tại phiên toà: Chị T có mặt, anh H vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện nộp ngày 10-6-2018, quá trình tham gia tố tụng tại Toà án và tại phiên toà nguyên đơn chị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn năm 2002 tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng hai năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H ham chơi cờ bạc, không quan tâm đến vợ con nên chị phải đưa hai con về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng đã sống ly thân khoảng 7 năm, chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, nên xin ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là Trần Thu T, sinh ngày 21-10- 2002 và Trần Dương Ánh Đ, sinh ngày 18-5-2011. Nếu ly hôn chị xin nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản xác minh, thu thập chứng cứ ngày 15-6-2018, tổ trưởng tổ dân phố số 12 xác nhận vợ chồng chị T, anh H có xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, đánh chửi nhau. Hiện tại chị T đã đưa các con về nhà bố mẹ đẻ ở từ nhiều năm nay nên đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định:

Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị xử ly hôn giữa chị T và anh H; con chung giao cho T nuôi dưỡng; ghi nhận tự nguyện của chị T về việc không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về thủ tục tố tụng: Anh Trần Trung H đã được Tòa án tống đạt hợp lệcác văn bản tố tụng:  Thông báo về việc thụ lý vụ án, bản sao đơn khởi kiện và toàn bộ tài liệu chứng cứ kèm theo; ngoài ra còn được tống đạt Giấy triệu tập, Thông báo phiên hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh H không đến Tòa án, không có lý do; vì vậy Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

 [2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị T và anh Trần Trung H tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn năm 2002 tại Uỷ ban nhân dân xã N, huyện T, tỉnh Bắc Giang nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng hai năm thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân là do bản thân anh H chơi bời, cờ bạc, không quan tâm đến vợ con, vợ chồng không giải quyết được mâu thuẫn nên chị T đã đưa hai con về nhà bố mẹ đẻ ở từ năm 2012 đến nay, anh H cũng không đến thăm vợ con; Tòa án tống đạt các thủ tục hợp lệ theo qui định của pháp luật nhưng anh H cũng không đến giải quyết mâu thuẫn mà không có lý do gì. Chứng tỏ tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được; vì vậy cần xử ly hôn giữa chị T và anh H là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

 [3] Về con chung: Chị T và anh H có hai con chung là Trần Thu T, sinh ngày 21-10-2002 và Trần Dương Ánh Đ, sinh ngày 18-5-2011, hai cháu đang sống cùng với chị T tại Bắc Giang; chị T có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con; anh H không đến Tòa án giải quyết nên không có quan điểm gì; bản thân cháu T và cháu Đ đều có đơn trình bầy nguyện vọng xin được ở với chị T. Vì vậy cần bảo đảm được sự phát triển và học tập bình thường cho các cháu; nên cần giao hai con chung cho chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chị T không yêu cầu là hoàn toàn tự nguyện không vi phạm điều cấm của pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên được ghi nhận.

 [4] Về tài sản, nhà đất và công nợ chung: Chị T không yêu cầu nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết.

 [5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56 và các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Dương Thị T và anh Trần Trung H.

2. Về con chung: Giao chị Dương Thị T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung là Trần Thu T, sinh ngày 21-10-2002 và Trần Dương Ánh Đ, sinh ngày 18-5-2011. Chị Dương Thị T tự nguyện không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Anh Trần Trung H có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở, nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Dương Thị T phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu tiền số 0000048 ngày 12-6-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định.

Chị Dương Thị T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Trần Trung H có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 366/2018/HNGĐ-ST ngày 01/08/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:366/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về