TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN - TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 364/2020/HS-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 07 tháng 9 năm 2020 tại Hội trường A Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 348/2020/HSST ngày 14 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 367/2020/QĐXXST - HS ngày 27/8/2020 đối với bị cáo:
Nguyễn Thành T, sinh năm 1987 tại tỉnh Bình Dương; thường trú:
348/2A tổ 7, khu 2 C, Thành phố M, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông Nguyễn Hoàng S, sinh năm 1965 và con bà Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 1967; bị cáo có vợ tên Hoàng Thị H, sinh năm 1995, bị cáo có 01 con sinh năm 2017; tiền sự: Không có.
Tiền sự: Ngày 07/11/2016 Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng,theo quyết định 61, ngày 07/8/2018 chấp hành xong quyết định.
Nhân thân:
+ Ngày 06/7/2006 Chủ tịch UBND thị xã Thủ Dầu Một (nay là Thành phố Thủ Dầu Một), tỉnh Bình Dương ra quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh 24 tháng, theo quyết định số 130, ngày 28/7/2008 chấp hành xong quyết định.
+ Ngày 24/6/2009 Tòa án nhân dân huyện Thuận An (nay là Thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương xử phạt 4 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo bản án số 178, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/5/2012 nộp án phí ngày 29/10/2009 + Ngày 02/1/2014 Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, theo bản án số 4, chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/12/2014, nộp án phí ngày 4/3/2014 Bị cáo bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 16/5/2020, có mặt.
Người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan đến vụ án Anh Nguyễn Thanh L (tên gọi khác: Cu đen); thường trú: 83/4 đường Lò Chén, khu phố 4, phường N, Thành phố M, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
Người chứng kiến: Anh Huỳnh Văn T1, sinh năm 1995, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 14/5/2020 bị cáo Nguyễn Thành T được người tên Thiện cho 01 gói ma túy để sử dụng. Khoảng 9 giờ ngày 16/5/2020 T cầm gói ma túy, bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm nỏ thủy tinh, ống hút nhựa, vỏ chai nhựa đi gặp Nguyễn Thanh L để mượn xe mô tô biển số 61T8- 4038, T điều khiển xe mô tô đi uống cà phê thì gặp bạn tên Tây, T chở Tây đi cầm điện thoại của T sau đó T gặp bạn tên Tuấn, T mượn điện thoại của Tuấn để điện thoại cho Huỳnh Văn T1 để đến nhà T1 chơi, sau đó T điện thoại cho Phong hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy và được hẹn đến khu vực Ngã 3 Cây Điệp, phường Tân Đông Hiệp, Thành phố Dĩ An nhận ma túy, T điều khiển xe chở Tây đi đến nhà T1, khi Tây vào nhà T1 thì T đi gặp Phong mua ma túy. Sau khi có ma túy T về nhà T1 thì không có T1 và Tây ở đây, T ra nghĩa trang Triều Châu gặp Tây và T1. Tại đây T lấy ma túy đã mua cùng bộ sử dụng ma túy ra sử dụng, Tây và T1 xin T cho sử dụng ma túy, khi cả ba đang sử dụng ma túy bị Công an phường Tân Đông Hiệp tuần tra phát hiện bắt giữ T1 và T, riêng Tây tẩu thoát.
Vật chứng thu giữ: Xe mô tô nhãn hiệu Future C125, biển số 61T8-4038:
02 túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng.
Kết luận giám định số 305/MT-PC09 ngày 25/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng trong túi nylon miệng kéo dính (kí hiệu M1) gửi giám định có khối lượng 2,4101 gam; mẫu tinh thể màu trắng trong túi nylon miệng kéo dính (kí hiệu M2) gửi giám định có khối lượng 0,0443 gam đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 2,4544 gam.
Đối với Huỳnh Văn T1 sử dụng ma túy. Công an phường Tân Đông Hiệp lập hồ sơ đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc Cáo trạng số 384/CT – VKS ngày 13 tháng 8 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Thành T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.
Về vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước xe mô tô kiểu dáng Future C125, biển số 61T8- 4038 do không xác định được chủ sử hữu hợp pháp.
Bị cáo T không tranh luận, bào chữa cho hành vi phạm tội. Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, bị cáo nói lời sau cùng xin xem xét giảm nhẹ mức hình phạt thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo Nguyễn Thành T: Căn cứ biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang ngày 16/5/2020, lời khai người chứng kiến, biên bản hỏi cung bị cáo T, kết luận giám định về ma túy thể hiện bị cáo T mua ma túy về sử dụng. Ngày 16/5/2020 khi bắt giữ T thu giữ từ T 2,4544 gam ma túy loại Methamphetamine. Như vậy, hành vi trên của bị cáo T đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 384/CT-VKS ngày 13/8/2020 của Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân rất xấu thể hiện sử dụng ma túy trong thời gian dài, bị cáo đã bị xử phạt tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, bị đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc nhưng sau đó tiếp tục sử dụng ma túy đã thể hiện sự không có hướng thiện của bản thân cũng như việc chấp hành pháp luật.
[2] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo T phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 5 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện tội phạm một cách cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[3] Trong vụ án còn có liên quan đến người tên Thiện, Phong, Tây là người bán ma túy, cho ma túy cho T. Công an Thành phố Dĩ An tách xác minh xử lý sau là phù hợp.
[4] Về vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ ma túy cần tịch thu tiêu hủy. Đối với xe mô tô kiểu dáng Future C125, biển số 61T8- 4038 do không xác định được chủ sử hữu hợp pháp cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
[5] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, việc xử lý vật chứng, mức hình phạt bị cáo T phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.
[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[7] Án phí sơ thẩm: Bị cáo T phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ, bắt tạm giam ngày 16/5/2020.
2. Các biện pháp tư pháp Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điều 89, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy ma túy còn lại sau giám định M1 có khối lượng /trọng lượng 2,1647 gam; M2 có khối lượng/ trọng lượng 0,0144 gam đã được niêm phong trong 01 bì thư.
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô kiểu dáng Future C125, màu xanh, biển số 61T8-4038, số máy 0032050, số khung Y031973 (xe đã bị cháy chỉ còn lại khung xe, lốc máy và biển số).
Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/8/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự Thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Bị cáo Nguyễn Thành T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 364/2020/HS-ST ngày 07/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 364/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về