Bản án 364/2020/HNGĐ-ST ngày 16/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 364/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 16 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 681/2020/TLST-HNGĐ ngày 06/10/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 350/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11/11/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 284/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30/11/2020, giữa các Đ sự:

- Nguyên đơn: Chị Huỳnh Diễm M, sinh năm 1994. Địa chỉ: Ấp T, xã L, huyện N, tỉnh Cà Mau.

- Bị đơn: Anh Huỳnh Minh Đ, sinh năm 1989. Địa chỉ: Ấp T, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau.

Nguyên đơn có đơn yêu cầu đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt không rõ lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 22/5/2020 và lời trình bày của nguyên đơn có tại hồ sơ, thể hiện: Vào năm 2016 chị M và anh Đ được 02 bên gia đình tổ chức đám cưới với nhau, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau vào ngày 19/12/2016 (Giấy chứng nhận kết hôn số: 112/2016). Thời kỳ hôn nhân có 01 con chung tên Huỳnh Khánh B, sinh 05/02/2017.

Về tài sản chung và nợ chung tự thỏa thuận.

Nguyên nhân mâu thuẫn: Chị M cho rằng do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, nên vợ chồng thường xuyên cự cải với nhau, dẫn đến đời sống hôn nhân mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng đã không sống chung đến nay đã hơn một năm, nhưng không có thiện chí hàn gắn trở lại, chị M xác định hiện nay không còn tình cảm với anh Đ.

Chị M yêu cầu ly hôn với anh Đ; về con chung hiện nay chị M đang trực tiếp nuôi dạy, sau khi ly hôn chi M yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng cho con; về tài sản chung và nợ chung không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Đối với bị đơn: Tòa án đã triệu tập hợp lệ 02 lần để tham gia phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, 02 lần để xét xử, nhưng bị đơn đều vắng mặt không rõ lý do, nên không ghi nhận được ý kiến.

Từ những nội dung vụ án thể hiện;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Xét về quyền khởi kiện, quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Nguyên đơn thực hiện quyền khởi kiện bị đơn về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con và bị đơn có nơi cư trú tại huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nên Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau thụ lý giải quyết vụ án dân sự “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét về thủ tục: Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và bị đơn vắng mặt không rõ lý do, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Xét yêu cầu và ý kiến của Đ sự:

[3.1] Về yêu cầu ly hôn: Mối quan hệ hôn nhân giữa chị M và anh Đ được xác lập trên tinh thần tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật, nên mối quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Hội đồng xét xử xét thấy cuộc sống hôn nhân nếu muốn có được hạnh phúc dài lâu và đạt được mục đích thì vợ chồng phải bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, đồng thời phải biết thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau và sống chung với nhau. Nhưng chị M và anh Đ không làm được đều đó, mà chỉ vì bất đồng về quan điểm sống của mỗi người từ đó làm cho mối quan hệ hôn nhân lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đồng thời chị M và anh Đ đã không chung sống với nhau hơn 01 năm mà không hàn gắn trở lại được và trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án đã triệu tập anh Đ 02 lần để hòa giải nhưng anh Đ đều không đến, nên có căn cứ xác định anh Đ không còn quan tâm gì đối với mối quan hệ hôn nhân giữa anh và chị M, do đó xác định chị M và anh Đ đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng dẫn đến các hệ lụy nêu trên, nếu tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân về sau thì sẽ không đảm bảo hạnh phúc và trái với các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình hiện nay, nên cần chấp nhận cho chị M được ly hôn với anh Đ là phù hợp với Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình. (Giấy chứng nhận kết hôn số: 112/2016 ngày 19/12/2016 của UBND xã P hết hiệu lực kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật).

[3.2] Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con:

- Về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn: Hội đồng xét xử xét thấy cháu B hiện nay còn nhỏ và có giới tính nữ, đang được chị M trực tiếp nuôi dạy từ khi chị M và anh Đ không sống chung với nhau, chị M không thuộc trường hợp không đủ điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng giáo dục con, nếu giao cháu B cho chị M nuôi dạy thì sẽ đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu B về sau, do đó cần giao cháu B cho chị M trực tiếp nuôi dạy là phù hợp với khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, anh Đ có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống với chị M, nếu anh Đ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị M có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 82, khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của pháp luật.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con: Chị M không yêu cầu, xét thấy đây là sự tự nguyện của chị M không trái với đạo đức xã hội và điều cấm của luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị M cho rằng tài sản chung và nợ chung tự thỏa thuận, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh Đ về vấn đề tài sản chung và nợ chung, nên chưa có căn cứ làm rõ phần tài sản chung và nợ chung giữa chị M và anh Đ. Do đó, cần tách phần tài sản chung và nợ chung ra, trường hợp sau này giữa các Đ sự có tranh chấp và có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng vụ kiện khác.

[4] Xét về án phí dân sự sơ thẩm: Chị M phải chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng theo định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chị M đã dự nộp tiền tạm ứng án phí trước 300.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau được chuyển thu đối trừ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 1 Điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Diễm M.

- Về hôn nhân: Cho chị Huỳnh Diễm M ly hôn với anh Huỳnh Minh Đ.

Giấy chứng nhận kết hôn số: 112/2016 ngày 19/12/2016 của UBND xã P hết hiệu lực kể từ ngày bản án này có hiệu lực pháp luật.

- Về việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn: Giao cho chị M trực tiếp nuôi dạy cháu Huỳnh Khánh B, sinh 05/02/2017. Anh Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở, anh Đ có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống với chị M, nếu anh Đ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị M có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của pháp luật.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con: Anh Đ không phải cấp dưỡng cho con.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị M phải nộp án phí ly hôn là 300.000 đồng, chị M đã dự nộp tạm ứng án phí trước 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0004074 ngày 06/10/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau nay được chuyển thu đối trừ.

3. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 364/2020/HNGĐ-ST ngày 16/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:364/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về