Bản án 364/2019/HS-PT ngày 13/11/2019 về tội tổ chức đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 364/2019/HS-PT NGÀY 13/11/2019 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 218/2019/TLPT-HS ngày 16 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Cao Đức T và Mạc Thanh T1; do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2019/HS-ST ngày 16 tháng 01 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Cao Đức T (tên gọi khác: T Cóc), sinh năm 1974 tại Đồng Nai; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Đức N (chết) và bà Phạm Thị T; có vợ tên Phùng Thị Mai L và có 02 con; tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 446/2008/HSST ngày 19/8/2008, bị Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa xử phạt 20.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 248 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), chấp hành xong bản án ngày 06/7/2018; tiền sự: Không; hiện nay, bị cáo không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn; vắng mặt tại phiên tòa.

2. Mạc Thanh T1, sinh năm 1989 tại Đồng Nai; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: Khu phố U, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Thợ bọc nệm; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mạc Ngọc P và bà Lê Thị H; có vợ tên Chu Thị Th và có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/7/2018 đến ngày 18/7/2018 được hủy bỏ tạm giữ; hiện nay, bị cáo không bị áp dụng biện pháp ngăn chặn; có mặt tại phiên tòa.

- Ngoài ra, trong vụ án còn có 11 bị cáo khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính:

Khoảng 10 giờ ngày 09/7/2018, tại nhà không số, thuộc Tổ M, Khu phố U, phường H, thành phố B (nhà của cha mẹ Cao Đức T), Cao Đức T và Mạc Thanh T1 tổ chức cho Đỗ Trọng T2, Đỗ Hữu Th, Trần Quốc A, Hoàng Văn Tr, Vũ Đ, Cao Đức L, Vũ Văn B, Nguyễn Thị Á, Nguyễn Thị Cẩm L, Nguyễn Minh T3, Lê Công Đ1 và một số đối tượng (không rõ lai lịch), đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức xóc đĩa. T thuê T1 xóc đĩa, thu tiền xâu, mua nước uống cho các con bạc và trả công cho T1 150.000 đồng mỗi ngày. T quy định, khi có 03 mặt trắng, 01 mặt đen và bên lẻ thắng thì nộp xâu cho T 50.000 đồng/1.000.000 đồng (năm mươi nghìn đồng trên một triệu đồng) tiền thắng cược; hoặc 50.000 đồng/người/giờ (năm mươi nghìn đồng trên một người trên một giờ).

Cách thức đánh bạc như sau: T chuẩn bị 04 (bốn) quân vị hình tròn (được cắt từ lá bài tây 52 lá), đường kính khoảng 1,5cm, mỗi quân vị có hai mặt, một mặt màu trắng, một mặt màu đen, 01 (một) bộ chén đĩa. Trong quá trình đánh bạc, không có người cầm cái, người tham gia đánh bạc ai muốn xóc thì đứng ra xóc. Người xóc sẽ cho 04 (bốn) quân vị vào đĩa và lấy chén đậy kín lại, cầm lên lắc nhiều lần rồi đặt xuống. Người chơi chọn bên chẵn hoặc bên lẻ để đặt tiền từ 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng) đến 1.000.000 đồng (một triệu đồng)/ván. Người xóc cũng tham gia đặt cược bên chẵn hoặc lẻ tùy ý như các con bạc khác và cân đối số tiền hai bên chẵn, lẻ bằng nhau. Số tiền đặt cược của tất cả những người chơi mỗi ván khoảng từ 1.000.000 đồng (một triệu đồng) đến 3.000.000 đồng (ba triệu đồng). Khi mở chén, mặt trên của các quân vị cùng màu là chẵn, những người đặt cược bên chẵn thắng được số tiền của người đặt bên lẻ và ngược lại.

Quá trình đánh bạc, T xóc đĩa, thu tiền xâu đến 17 giờ cùng ngày, T đi đá bóng và giao lại cho T1 xóc đĩa, cân số tiền hai bên chẵn lẻ và thu xâu. Số tiền từng người sử dụng đánh bạc thể hiện như sau:

- Đỗ Trọng T2 đem theo và sử dụng 14.000.000 đồng (mười bốn triệu đồng) để đánh bạc, đánh thua 10.200.000 đồng, còn lại 3.800.000 đồng, để trong người thì bị thu giữ.

- Đỗ Hữu Th đem theo và sử dụng 10.000.000 đồng (mười triệu đồng) để đánh bạc, đánh thua 1.300.000 đồng, còn lại 8.700.000 đồng để trong người thì bị thu giữ.

- Trần Quốc A đem theo và sử dụng 5.900.000 đồng (năm triệu chín trăm nghìn đồng) để đánh bạc và thua hết.

- Hoàng Văn Tr đem theo và sử dụng 3.000.000 đồng (ba triệu đồng) để đánh bạc, đánh thua 1.000.000 đồng, còn 2.000.000 đồng để trong người thì bị thu giữ.

- Vũ Đ đem theo và sử dụng 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) để đánh bạc, thua 1.000.000 đồng, còn lại 1.000.000 đồng cầm trên tay; khi Công an bắt quả tang, Đ bỏ chạy làm rơi số tiền trên và không nhớ vị trí nên không thu giữ được.

- Cao Đức L đem theo 18.100.000 đồng (mười tám triệu một trăm nghìn đồng), sử dụng 2.000.000 đồng để đánh bạc và thua hết, còn 16.100.000 đồng không sử dụng vào việc đánh bạc, để trong người và bị thu giữ.

- Vũ Văn B đem theo và sử dụng 1.900.000 đồng (một triệu chín trăm nghìn đồng) để đánh bạc; khi bị bắt không thắng, không thua, 1.900.000 đồng để trong người thì bị thu giữ.

- Nguyễn Thị Á đem theo và sử dụng 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng) để đánh bạc và thua hết.

- Nguyễn Thị Cẩm L đem theo và sử dụng 700.000 đồng (bảy trăm nghìn đồng) để đánh bạc, đánh thua 400.000 đồng, còn 300.000 đồng để trong người thì bị thu giữ.

- Nguyễn Minh T2 đem theo và sử dụng 510.000 đồng (năm trăm mười nghìn đồng) để đánh bạc, đánh thua 250.000 đồng, còn 260.000 đồng để trong người thì bị thu giữ.

- Lê Công Đ1 đem theo 6.700.000 đồng (sáu triệu bảy trăm nghìn đồng), sử dụng 200.000 đồng để đánh bạc, đánh thua 50.000 đồng, còn 6.650.000 đồng để trong người thì bị thu giữ; trong đó, 150.000 đồng sử dụng đánh bạc và 6.500.000 đồng không sử dụng vào việc đánh bạc.
Quá trình xóc đĩa cho các con bạc, Mạc Thanh T1 thu xâu được số tiền 1.500.000 đồng (một triệu năm trăm nghìn đồng), để dưới chiếu bạc và bị thu giữ.

Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, Mạc Thanh T1 đang xóc đĩa cho các con bạc nêu trên đánh bạc, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Biên Hòa phát hiện, bắt quả tang và thu giữ số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 30.130.000 đồng (ba mươi triệu một trăm ba mươi nghìn đồng).

2. Vật chứng vụ án:

2.1. Công cụ và phương tiện dùng để đánh bạc:

- 01 bộ chén đĩa (01 cái chén, 01 cái đĩa) và 04 quân vị sử dụng để đánh bạc.

- 01 tấm vải dùng để đánh bạc.

2.2. Thu giữ số tiền sử dụng đánh bạc:

- 13.020.000 đồng (mười ba triệu không trăm hai mười nghìn đồng) thu trên chiếu bạc là tiền các con bạc sử dụng vào việc đánh bạc.

- 17.110.000 đồng (mười bảy triệu một trăm mười ngàn đồng) thu giữ trên người các con bạc sử dụng đánh bạc như đã nêu trên.

2.3. Thu giữ tài sản khác không liên quan đến vụ án:

- 16.100.000 đồng của Cao Đức L.

- 6.500.000 đồng của Lê Công Đ1.

- 500.000 đồng của Mạc Thanh T1.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S của Đỗ Trọng T2.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J5 của Nguyễn Thị Á.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 216 của Trần Quốc A.
Số tài sản khác không liên quan đến đánh bạc, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Biên Hòa đã thu giữ và giao trả cho chủ sở hữu, bao gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1200 và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6S của Vũ Đ.

- 01 xe mô tô biển số 60F7-11XX của Trần Quốc A.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 1080 và 01 bóp da màu đen của Hoàng Văn Tr.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S6 của Nguyễn Minh T3.

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu đen GT-E1200Y của Nguyễn Thị Cẩm L.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia 6234 của Lê Công Đ1.

3. Quyết định của cấp sơ thẩm:

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2019/HS-ST ngày 16 tháng 01 năm 2019 và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số: 03/2019/TB-TA ngày 29-01-2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Cao Đức T và Mạc Thanh T1 phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a khoản 1 Điều 322; các bị cáo Đỗ Trọng T2, Đỗ Hữu Th, Trần Quốc A, Hoàng Văn Tr, Vũ Đ, Cao Đức L, Vũ Văn B, Nguyễn Thị Á, Nguyễn Thị Cẩm L, Nguyễn Minh T3 và Lê Công Đ1 phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); quyết định xử phạt:

- Xử phạt bị cáo Cao Đức T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 30.000.000 đồng.

- Xử phạt bị cáo Mạc Thanh T1 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án.

- Xử phạt bị cáo Trần Quốc A 06 (sáu) tháng 09 (chín) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/7/2018. Trả tự do ngay tại phiên tòa. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 25.000.000 đồng.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Á 06 (sáu) tháng 09 (chín) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/7/2018. Trả tự do ngay tại phiên tòa. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 20.000.000 đồng.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T2 06 (sáu) tháng 09 (chín) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày 09/7/2018. Trả tự do ngay tại phiên tòa. Phạt bổ sung bị cáo số tiền 20.000.000 đồng.

- Xử phạt tiền là hình phạt chính đối với các bị cáo còn lại, với mức phạt từ 20.000.000 đồng đến 35.000.000đồng.

- Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

4. Kháng cáo: Trong thời hạn luật định, các bị cáo Cao Đức T và Mạc Thanh T1 kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

5. Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm: Kiểm sát viên đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án; đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về sự vắng mặt của bị cáo Cao Đức T:

Ngày 23/10/2019, bị cáo Cao Đức T được tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 314/2019/QĐXXPT-HS và Giấy Triệu tập số: 290/GTT-HSPT cùng ngày 17/10/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai.

Ngày 12/11/2019, người thân của bị cáo Cao Đức T nộp cho Tòa án cấp phúc thẩm “Đơn xin hoãn tòa” ngày 13/11/2019, với lý do bị cáo T bị bệnh; đồng thời, cung cấp Sổ Khám bệnh của Bệnh viện Đa khoa T.
Ngày 13/11/2019, trước khi mở phiên tòa, Tòa án cấp phúc thẩm đã tiến hành xác minh, Bệnh viện Đa khoa T cho biết: “ngày 12/11/2019, bệnh nhân Cao Đức T có đến khám bệnh tại Bệnh viện Đa khoa T. Qua kiểm tra, thăm khám, bác sỹ Th xác định bệnh nhân Tuấn bị viêm họng cấp (J02); nhiễm vi rút ở vị trí không xác định (B34). Vào thời điểm kiểm tra, bệnh nhân không nằm viện. Nhận thấy tình trạng bệnh của bệnh nhân T không cần thiết phải ở lại bệnh viện để điều trị, nên bác sỹ Th kê đơn thuốc và cho bệnh nhân điều trị ngoại trú”.

Từ những nội dung trên, việc xin hoãn phiên tòa của bị cáo Cao Đức T là không có cơ sở. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 351 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo Mạc Thanh T1 khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Tổ chức đánh bạc”, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về kháng cáo:

3.1. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Cao Đức T có 01 tiền án về tội “Đánh bạc”; bị cáo tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

3.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Cấp sơ thẩm xác định: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; thuộc điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo Mạc Thanh T1 phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thuộc điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Bị cáo Mạc Thanh T1 được bị cáo Cao Đức T thuê, để xóc đĩa, thu tiền xâu, mua nước uống cho các con bạc và trả công cho T1 150.000 đồng/ngày; do đó, bị cáo T1 phạm tội với vai trò đồng phạm, giúp sức cho bị cáo T, phạm tội với vai trò thứ yếu. Cấp sơ thẩm áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo T1 là đúng và phù hợp với hướng dẫn tại khoản 4 Mục I của Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ số: 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao; tuy nhiên, việc không nhận định vào bản án là có thiếu sót, cần rút kinh nghiệm.

- Tại cấp phúc thẩm: Bị cáo Cao Đức T cung cấp đơn có xác nhận của chính quyền địa phương, thể hiện bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Bị cáo Mạc Thanh T1 cung cấp đơn có xác nhận của chính quyền địa phương, thể hiện bị cáo là lao động chính và có hoàn cảnh gia đình khó khăn; tài liệu thể hiện mẹ bị cáo T1 là bà Lê Thị H có tham gia cách mạng với vai trò là Thanh niên Xung phong tại Mặt trận Tây Nam. Các nội dung trên thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

3.3. Về hình phạt:

Đối với bị cáo Cao Đức T: Với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tình tiết giảm nhẹ mới nêu trên; việc cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo ở đầu khung hình phạt là đã giảm nhẹ cho bị cáo; do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Đối với bị cáo Mạc Thanh T1: Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét nội dung vụ án, vai trò phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ mới nêu trên; xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt; ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành tốt chính sách, pháp luật tại địa phương; bị cáo có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng và có khả năng tự cải tạo; việc buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù là không cần thiết. Do đó, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử phạt bị cáo hình phạt tiền là đủ răn đe, giáo dục bị cáo và thu ngân sách Nhà nước; đồng thời, thể hiện sự nhân đạo của pháp luật.

[4] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Bị cáo Cao Đức T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

- Bị cáo Mạc Thanh T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Đối với phần trình bày của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận phần phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355; Điều 356 và điểm đ khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Đức T; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Mạc Thanh T1;

Sửa một phần về hình phạt do khách quan đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 39/2019/HS-ST ngày 16-01-2019 và Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án số: 03/2019/TB-TA ngày 29-01-2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

1. Hình phạt:

1.1. Đối với bị cáo Cao Đức T:

Áp dụng điểm a khoản 1, 3 Điều 322; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

- Xử phạt bị cáo Cao Đức T 01 (một) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; thời hạn tù được tính từ ngày người bị kết án vào cơ sở giam giữ chấp hành án phạt tù.

- Phạt bổ sung bị cáo Cao Đức T phải nộp số tiền 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) sung vào công quỹ Nhà nước.

1.2. Đối với bị cáo Mạc Thanh T1:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 322; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 và Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Mạc Thanh T1 phải nộp 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) về tội “Tổ chức đánh bạc”, sung vào công quỹ Nhà nước.

2. Về án phí:

- Bị cáo Cao Đức T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm;

- Bị cáo Mạc Thanh T1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo khác, xử lý vật chứng và án phí hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

310
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 364/2019/HS-PT ngày 13/11/2019 về tội tổ chức đánh bạc

Số hiệu:364/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về