Bản án 363/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 363/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án Nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân Gia đình thụ lý số 238/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 183/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 146/2020/QĐST- HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Lệ X, sinh năm 1995 (Có Đơn xin xét xử vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: Tổ A, ấp H, TT. A, huyện C, tỉnh An Giang.

Nơi cư trú: Tổ A, ấp H, xã H, huyện C, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông Võ Văn D, sinh năm 1994 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ A, ấp H, TT.A, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai cùng ngày 08/6/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn – Bà Bùi Thị Lệ X trình bày:

- Về hôn nhân: Bà và ông Võ Văn D do mai mối nên được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới vào năm 2014 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang ngày 10/7/2014. Sau khi đám cưới thì bà về sống và làm dâu bên chồng, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông D không lo làm ăn, chỉ lo chơi bời, cờ bạc dẫn đến thiếu nợ, bà đã đứng ra trả nợ cho ông D nhiều lần, nhưng sau đó ông D vẫn không sửa đổi, bà đã khuyên ông D nhiều lần không được nên từ năm 2019 bà về nhà cha mẹ ruột sống cho đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Võ Văn D.

- Về con chung: Bà và ông D có 01 con chung tên Võ Thành Đ, sinh ngày 09/01/2015. Hiện cháu Đ đang sống với bà, sau khi ly hôn bà yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn – Ông Võ Văn D: Đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông không đến Tòa án và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà X.

Theo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án:

- Các tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp gồm: Giấy bưu điện gửi hồ sơ khởi kiện cho bị đơn; Giấy CMND, hộ khẩu của nguyên đơn (Bản photo); Giấy chứng nhận kết hôn (Bản sao); Tờ tự khai của bà X; Giấy khai sinh của cháu Võ Thành Đ.

- Bị đơn: không cung cấp tài liệu, chứng cứ.

- Các tài liệu, chứng cứ do Tòa án tiến hành thu thập: Biên bản không ghi được lời khai ông Võ Văn D ngày 20/8/2020; Biên bản lấy lời khai của người làm chứng - Bà Nguyễn Thị D ngày 20/8/2020.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn: Vắng mặt và có Đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân huyện C phát biểu ý kiến:

Việc chấp hành pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã thực hiện đúng trình tự tố tụng, nguyên đơn thực hiện đúng quyền và ngh a vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Về hôn nhân: Bà X được ly hôn với ông D; Về con chung: Bà X được tiếp tục nuôi con chung là cháu Võ Thành Đ, sinh ngày 09/01/2015, ông D không phải cấp dưỡng nuôi con do bà X không yêu cầu; Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Bà X yêu cầu tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không đặt ra xem xét. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà X phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

1.1 Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Bùi Thị Lệ X có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Võ Văn D do vậy xác định đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

1.2 Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Ông Võ Văn D có nơi cư trú tại tổ A, ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang. Do đó, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang.

1.3 Về sự có mặt của các đương sự: Nguyên đơn - Bà X vắng mặt tại phiên toà, tuy nhiên bà đã có Đơn xin xét xử vắng mặt ngày 25/8/2020 phù hợp theo quy định nên được chấp nhận; Bị đơn – Ông D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà X và ông D.

[2] Về nội dung tranh chấp:

2.1 Về hôn nhân: Bà X và ông D có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình, hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ khi xảy ra tranh chấp.

Quá trình chung sống giữa bà X và ông D xảy ra mâu thuẫn không thể khắc phục, theo bà X nguyên nhân là do ông D không lo làm ăn, chỉ lo chơi bời, cờ bạc dẫn đến thiếu nợ, bà đã đứng ra trả nợ cho ông D nhiều lần, nhưng sau đó ông D vẫn không sửa đổi, bà đã khuyên ông D nhiều lần không được nên từ năm 2019 bà về nhà cha mẹ ruột sống cho đến nay. Nay bà X yêu cầu ly hôn với ông D.

Bị đơn ông Võ Văn D đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như: Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo về phiên đối chất, Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông không đến Tòa án và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà X.

Theo Biên xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà X và ông D ngày 20/8/2020 (Bút lục 38), Bà Nguyễn Thị D là mẹ ruột của ông D trình bày: Việc mâu thuẫn giữa vợ chồng bà X và ông D thì bà đã nhiều lần khuyên D do ông cờ bạc không lo làm ăn. Ông D biết việc bà X yêu cầu ly hôn, khi Tòa án gửi thông báo bà có gọi điện cho ông D nhưng ông nói là không về được. Đến khi Tòa án gửi thông báo mời lần 2 cho D bà có điện thoại cho D nhưng không được nên nhờ chú của D gọi thì D nói X muốn ly hôn thì để Tòa án giải quyết chứ D không ly hôn. Theo bà giữa bà X và ông D có đoàn tụ được hay không là do bà X quyết định.

Từ những nội dung nêu trên, xét thấy cuộc hôn nhân hiện nay giữa bà X và ông D lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc duy trì quan hệ hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai vì thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay và trong thời gian ly thân cả hai không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà X, bà X được ly hôn với ông D .

2.2 Về con chung: Giữa bà X và ông D có 01 con chung tên Võ Thành Đ, sinh ngày 09/01/2015, theo trình bày của bà X và kết quả xác minh từ bà Nguyễn Thị D thì hiện cháu Đ đang sống với bà X. Sau khi ly hôn bà X yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con. Do đó, để ổn định cuộc sống của con chung hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu của bà X, giao con chung là cháu Đ cho bà X được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi. Bà X phải tạo điều kiện cho ông D trong việc tới lui thăm nom chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản. Về ngh a vụ cấp dưỡng nuôi con: Do bà X không yêu cầu nên ông D không phải cấp dưỡng nuôi con. Về quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn Nhân và Gia đình.

2.3 Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Bà X yêu cầu tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm:

Bà X là nguyên đơn phải chịu án phí Hôn nhân Gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

[4] Quyền kháng cáo: Bà X và ông D có quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự:

- Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014:

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

1. Về hôn nhân: Bà Bùi Thị Lệ X được ly hôn với ông Võ Văn D.

Giấy chứng nhận kết hôn số 112/kh, quyển số I/2014 ngày 10/7/2014 của Ủy ban nhân dân thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

Giao con chung là cháu Võ Thành Đ, sinh ngày 09/01/2015 cho bà Bùi Thị Lệ X được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi cháu Đ đủ 18 tuổi.

Bà X phải tạo điều kiện cho ông D trong việc tới lui thăm nom chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

Về ngh a vụ cấp dưỡng nuôi con: Do bà X không yêu cầu nên ông D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn Nhân và Gia đình.

3. Về án phí sơ thẩm: Bà Bùi Thị Lệ X phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân Gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007023 ngày 10/7/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

4. Quyền kháng cáo: Bà Bùi Thị Lệ X và ông Võ Văn D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 363/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:363/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về