Bản án 36/2021/HS-ST ngày 23/06/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 36/2021/HS-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 35/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 6 năm 2021 đối với:

Bị cáo Trần Đức A, sinh ngày 09/5/1982 tại H, trú tại thôn B, xã T, huyện Th, Thành Phố Hải Phòng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Trần Văn Tuấn (đã chết) và con bà Nguyễn Thị Hồng; Có vợ là Bùi Thị Thảo và có 02 con lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/02/2021 đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

1. Người bị hại: Anh Phạm Văn Cơ, sinh năm 1991. Vắng mặt Nơi cư trú: Thôn Hiệp Thành, xã Hoằng Kim, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

2. Người làm chứng: - Chị Ngô Thị Yến, sinh năm 1984.Vắng mặt Nơi cư trú: Phố Giắt, thị Trấn Triệu Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Thái Quyền Anh, sinh năm 1987. Vắng mặt Nơi cư trú: Phố Tô Vĩnh Diện, thị Trấn Triệu Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

-Chị Hà Thị Hồng, sinh năm 1988.Vắng mặt Nơi cư trú: Phố Tô Vĩnh Diện, thị Trấn Triệu Sơn, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.

-Chị Phạm Văn Lâm, sinh năm 2004. Vắng mặt Địa chỉ: xã Phù ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác nên khoảng 11h ngày 02/2/2021, Trần Đức A cùng một người đàn ông tên Thắng(chưa rõ họ và quán chỉ) đã đem theo nhẫn vàng giả đến cửa hàng vàng bạc Kim Thanh của gia đình anh Phạm Văn Cơ sinh năm 1991 ở thôn Hiệp Thành, xã Hoằng Kim, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá bán 01 chiếc nhẫn vàng giả lấy 5.900.000đ. Sau đó A và Thắng tiếp tục lên thị trấn Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá để bán vàng thì Trần Đức A bị phát hiện bắt giữ còn Thắng bỏ chạy thoát. Khi bán được vàng, A đưa tiền cho Thắng và Thắng chia cho A 500.000đ.

Sau đó A cùng Thắng đi đến phố Tô Vĩnh Diện, thị trấn Triệu Sơn, Thắng dừng xe cách cửa hàng vàng bạc Long Anh khoảng 100m để cho A đi bộ vào cửa hàng vàng bạc Long Anh của gia đình chị Ngô Thị Yến lừa bán 01 chiếc nhẫn nhưng chị Yến không mua vì phát hiện vàng giả. Không bán được nhẫn nên A tiếp tục đi bộ sang cửa hàng vàng bạc Thế Vượng của gia đình chị Hà Thị Hồng, cách cửa hàng vàng bạc Long Anh khoảng 40m để bán, chị Hồng kiểm tra phát hiện là vàng giả nên đã cùng anh Thái Quyền Anh, là chồng chị Hồng và anh Lê Huy Hoa là bảo vệ cửa hàng giữ lại và báo cáo Công an thị trấn Triệu Sơn đưa A cùng tang vật về trụ sở làm việc.

Tại Bản kết luận giám định số 1041/C09-P4 ngày 04/02/2021 của Viện KHHS Bộ Công an kết luận:

- Một thỏi kim loại màu vàng(anh Phạm Văn Cơ tự giao nộp sau khi khò từ chiếc nhẫn Trần Đức A bán cho cửa hàng) có khối lượng 10,48 gam là hợp kim của đồng (Cu), kẽm (Zn), vàng (Au), bạc (Ag); hàm lượng Cu: 69,24%, Zn:

26,66%, Au: 3,16%, Ag: 0,94%.

- Một nhẫn kim loại màu vàng( Thu giữ của Trần Đức A) phân mặt nhẫn có gắn 01 (một) viên đá to hình bầu dục màu đỏ và 10 (mười) viên đá nhỏ không màu có tổng khối lượng 13,09 gam (tính cả khối lượng đá) là hợp kim của đồng (Cu) và kẽm (Zn); hàm lượng Cu: 66,09%, Zn 30,91%. Trên bề mặt nhân dược phủ lớp hợp kim chứa vàng(Au). (BL: 39,40) Tại bản Kết luận định giá tài sản số 10/HDĐG - HH ngày 20/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tổ tụng hình sự Uỷ ban nhân dân huyện Hoằng Hoá định giá:

+Một thỏi kim loại màu vàng(anh Phạm Văn Cơ tự giao nộp) có khối lượng 10,48 gam là hợp kim của đồng (Cu), kẽm (Zn), vàng (Au), bạc (Ag); hàm lượng Cu: 69,24%, Zn: 26,66%, Au: 3,16%, Ag: 0,94% có giá trị 0 đồng.

+ Một nhẫn kim loại màu vàng( Thu giữ của Trần Đức A) phân mặt nhẫn có gân 01 (một) viên đá to hình bầu dục màu đỏ và 10 (mười) viên đá nhỏ không màu có tổng khối lượng 13,09 gam (tỉnh cả khối lượng đả) là hợp kim của đồng (Cu) và kẽm (Zn); hàm lượng Cu: 66,09%, Zn 30,91%. Trên bề mặt nhân được phủ lớp hợp kim chứa vàng(Au) có giá trị 0 đồng.

Bản cáo trạng số 32/VKSHH ngày 01 tháng 6 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa đã truy tố các bị cáo Trần Đức A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 174 của BLHS;

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật nêu trên và sau khi đánh giá tính chất vụ án, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b,s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Trần Đức A từ 06 - 9 tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định. Đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Số tiền 1.640.000đ. Đề nghị truy thu sung quỹ nhà nước số tiền 500.000đ là số tiền bị cáo thu được từ việc phạm tội. Trả lại cho bị cáo 1.140.000đ( Một triệu một trăm bốn mươi ngàn đồng).

Tịch thu tiêu hủy: - Một thỏi kim loại màu vàng có khối lượng 10,48 gam là hợp kim của đồng (Cu), kẽm (Zn), vàng (Au), bạc (Ag); hàm lượng Cu: 69,24%, Zn: 26,66%, Au: 3,16%, Ag: 0,94%;

- Một nhẫn kim loại màu vàng phân mặt nhẫn có gân 01 (một) viên đá to hình bầu dục màu đỏ và 10 (mười) viên đá nhỏ không màu có tổng khối lượng 13,09 gam (tỉnh cả khối lượng đả) là hợp kim của đồng (Cu) và kẽm (Zn); hàm lượng Cu: 66,09%, Zn 30,91%. Trên bề mặt nhân dược phủ lớp hợp kim chứa vàng(Au); Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, nhän hiệu XS Mas, màu vàng Gold, số IMEI: 357282093630211.

Về án phí: Đề nghị buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng đã truy tố, đồng ý với Bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa và lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hoằng Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Do có mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác nên khoảng 11h ngày 02/2/2021, Trần Đức A cùng một người đàn ông tên Thắng(chưa rõ họ và quán chỉ) đã đem theo nhẫn vàng giả đến cửa hàng vàng bạc Kim Thanh của gia đình anh Phạm Văn Cơ ở thôn Hiệp Thành, xã Hoằng Kim, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá bán 01 chiếc nhẫn vàng giả lấy 5.900.000đ. Sau đó A và Thắng tiếp tục lên thị trấn Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá để bán vàng thì Trần Đức A bị phát hiện bắt giữ còn Thắng bỏ chạy thoát. Khi bán được vàng, A đưa tiền cho Thắng và Thắng chia cho A 500.000đ.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa cũng như lời khai tại CQĐT, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập được.

Bị cáo đã lợi dụng sự không hiểu biết về việc phát hiện vàng giả, vàng thật bị cáo nên bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản bằng việc bán vàng giả cho anh Cơ nhằm chiếm đọat số tiền 5.900.000đ( Năm triệu chín trăm ngàn đồng) để lấy tiền chi tiêu cho nhu cầu cá nhân.

Tại phiên tòa Đại diện VKSND huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Do đó, HĐXX có đủ cơ sở kết luận Trần Đức A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất của vụ án thì thấy:

Bị cáo Trần Đức A đã dùng thủ đoạn gian dối, để lừa đảo chiếm đoạt số tiền là 5.900.000đ. Hành vi của bị cáo thể hiện tính coi thường pháp luật, gây dư luận xấu trong nhân dân, hành vi đó đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản được pháp luật bảo vệ. Do đó cần phải xử lý nghiêm minh, mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và vai trò của bị cáo, HĐXX thấy rằng:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo đã bồi thường toàn bộ tài sản cho bị hại, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt ho bị cáo, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b,i,s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường cho bị hại, bị hại không yêu cầu gì nên HĐXX niễm xét.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: - Số tiền 1.640.000đ, số tiền 500.000đ là số tiền bị cáo thu được từ việc phạm tội nên truy thu sung quỹ nhà nước.

Trả lại cho bị cáo 1.140.000đ( Một triệu một trăm bốn mươi ngàn đồng).

Tịch thu tiêu hủy: - Một thỏi kim loại màu vàng có khối lượng 10,48 gam là hợp kim của đồng (Cu), kẽm (Zn), vàng (Au), bạc (Ag); hàm lượng Cu: 69,24%, Zn: 26,66%, Au: 3,16%, Ag: 0,94%;

- Một nhẫn kim loại màu vàng phân mặt nhẫn có gân 01 (một) viên đá to hình bầu dục màu đỏ và 10 (mười) viên đá nhỏ không màu có tổng khối lượng 13,09 gam (tỉnh cả khối lượng đả) là hợp kim của đồng (Cu) và kẽm (Zn); hàm lượng Cu: 66,09%, Zn 30,91%. Trên bề mặt nhân dược phủ lớp hợp kim chứa vàng(Au); Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, nhän hiệu XS Mas, màu vàng Gold, số IMEI: 357282093630211.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tun bố: Bị cáo Trần Đức A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

* Căn cứ khoản 1 Điều 174, điểm b,i,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Đức A: 06( sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/02/2021.

Phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Truy thu sung quỹ nhà nước 500.000đ là số tiền bị cáo thu được từ việc phạm tội mà có.

-Trả lại cho bị cáo 1.140.000đ( Một triệu một trăm bốn mươi ngàn đồng).

( Theo ủy nhiệm chi ngày 22/6/2021 tại Kho bạc nhà nước huyện Hoằng Hóa; Tài khoản: 3949.0.9013481) Tịch thu tiêu hủy: - Một thỏi kim loại màu vàng có khối lượng 10,48 gam là hợp kim của đồng (Cu), kẽm (Zn), vàng (Au), bạc (Ag); hàm lượng Cu: 69,24%, Zn: 26,66%, Au: 3,16%, Ag: 0,94%;

- Một nhẫn kim loại màu vàng phân mặt nhẫn có gân 01 (một) viên đá to hình bầu dục màu đỏ và 10 (mười) viên đá nhỏ không màu có tổng khối lượng 13,09 gam (tỉnh cả khối lượng đả) là hợp kim của đồng (Cu) và kẽm (Zn); hàm lượng Cu: 66,09%, Zn 30,91%. Trên bề mặt nhân dược phủ lớp hợp kim chứa vàng(Au); Trả lại cho bị cáo: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone, nhän hiệu XS Mas, màu vàng Gold, số IMEI: 357282093630211.

( Theo biên bản giao nhận vật chứng số: 45/BBGN ngày 22/6/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa)

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình;

Điều 21, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/UBVQH ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2021/HS-ST ngày 23/06/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:36/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoằng Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về