Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 31/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ VĨNH CHÂU, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 36/2021/HNGĐ-ST NGÀY 31/05/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Trong ngày 31/5/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm, công khai vụ án dân sự thụ lý số: 274/2020/TLST-HNGĐ, ngày 09 tháng 10 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 23/4/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 22/2021/QĐST-HNGĐ ngày 12/5/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lâm Thị Hồng Y, sinh năm 1991 (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: ấp L, xã T, thành phố BL, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Anh Kha Hoàng P, sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: khóm M, Phường P, thị xã Vc, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 29/7/2020 (BL27); Biên bản lấy lời khai ngày 16/11/2020 (BL01) cũng như quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lâm Thị Hồng Y trình bày: Chị Lâm Thị Hồng Y và anh Kha Hoàng P có tổ chức lể cưới vào năm 2008, đến năm 2009 có đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường P, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 15/6/2009. Chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì giữa chị Y và anh P bắt đầu phát sinh nhiều mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm trong lối sống và hai người đã ly thân từ năm 2010 cho đến nay. Trong quá trình chung sống với nhau chị Y và anh P có 01 con chung là cháu Kha Quốc T, sinh ngày 24/7/2009 (Nam), hiện cháu T đang do anh P nuôi dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung không có.

Nay chị Y nhận thấy tình cảm vợ chồng đã không còn, hạnh P hôn nhân tan vỡ không thể hàn gắn được. Do đó yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị Y được ly hôn với anh P; Về con chung chị Y đồng ý giao cháu Kha Quốc T, sinh ngày 24/7/2009 (Nam) cho anh P nuôi dưỡng, chị Y không phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh P, nhưng anh P không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị Y, đồng thời anh P cũng không đến tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cũng như tham gia phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Y được ly hôn với anh P, giao con chung là cháu Kha Quốc T cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị Y không phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho anh P, nhưng anh P vẫn vắng mặt không có lý do, chị Y có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt chị Y, anh P theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu khởi kiện của chị Lâm Thị Hồng Y, nhận thấy chị Y và anh P tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2008, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường P, thị xã Vc, tỉnh Sóc Trăng và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 15/6/2009. Quan hệ hôn nhân của chị Y và anh P không vi phạm các điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Nhưng sau một thời gian chung sống, đến năm 2010 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do bất đồng ý kiến thường xảy ra mâu thuẫn với nhau và hai người ly thân từ thời gian đó cho đến nay. Chị Y nhận thấy cuộc sống chung không hạnh P, không còn tình cảm vợ chồng với anh P nên có nguyện vọng ly hôn. Chị Y và anh P đã không còn chung sống từ năm 2010 cho đến nay, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Y được ly hôn với anh P.

[3] Về con chung: Thời gian chung sống với nhau chị Y và anh P có 01 người con chung tên Kha Quốc T, sinh ngày 24/7/2009 (Nam), hiện cháu T đang sống với anh P. Chị Y đồng ý giao cháu T cho anh P nuôi dưỡng đến khi cháu T đủ 18 tuổi. Để đảm bảo cuộc sống của cháu T không bị xáo trộn về tâm, sinh lý, do từ khi chị Y và anh P ly thân cho đến nay, anh P là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu T, nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu của chị Y là giao con chung cháu Kha Quốc T cho anh Kha Hoàng P nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, Chị Y trình bày là không phải cấp dưỡng cho cháu T và anh P cũng không có ý kiến về việc cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử chấp nhận theo yêu cầu của chị Y là chị Y không phải cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung: Chị Y khẳng định tài sản chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ chung: Chị Y khẳng định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Vĩnh Châu là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Án phí sơ thẩm: Chị Y phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 238, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tu yên xử :

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Lâm Thị Hồng Y đối với bị đơn anh Kha Hoàng P.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Lâm Thị Hồng Y được ly hôn với anh Kha Hoàng P.

- Về con chung: Giao con chung cháu Kha Quốc T, sinh ngày 24/7/2009 (Nam) cho anh Kha Hoàng P trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi.

Chị Lâm Thị Hồng Y không phải cấp dưỡng nuôi con, chị Y được quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở. Chị Y không được lạm dụng việc thăm nom con chung để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Kha Quốc T của anh Kha Hoàng P thì anh P có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom.

- Về tài sản chung: Chị Y khẳng định tài sản chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung: Chị Y khẳng định không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2/ Về án phí sơ thẩm: Chị Lâm Thị Hồng Y phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền ứng án phí chị Y đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), theo Biên lai số 0006356, ngày 07/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị Y đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí. Anh Kha Hoàng P không phải chịu án phí sơ thẩm.

3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục P thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 31/05/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:36/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Vĩnh Châu - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về