Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 36/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 29 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1391/2021/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2021/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Thúy L.a, sinh năm 1984 Địa chỉ: Ấp M1, xã M, huyện Đ, tỉnh L.

- Bị đơn: Ông Hứa L, sinh năm 1983 Địa chỉ: Ấp M1, xã M, huyện Đ, tỉnh L.

(Bà L.a có mặt, ông L vắng mặt – Đã được triệu tập hợp lệ)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn ngày 17 tháng 11 năm 2020 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn bà Bùi Thị Thúy L.a trình bày: Bà và ông Hứa L được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2002 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện M, tỉnh B vào năm 2012. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2015 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là cuộc sống không phù hợp, ông L có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác. Vì tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nên bà xin ly hôn với ông Hứa L.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà ông Hứa L có bốn con chung tên Hứa Tấn L, sinh năm 2002 (đã trưởng thành), Hứa Phước L, sinh ngày 16/6/2008, Hứa Bùi Lan Kh, sinh ngày 27/6/2012 và Hứa Phúc L, sinh ngày 08/7/2014.

Về tài sản chung: Không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn nên bà xin ly hôn với ông Hứa L. Khi ly hôn, bà xin được tiếp tục nuôi các con chung Hứa Phước L, Hứa Bùi Lan Kh và Hứa Phúc L, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có nên bà không yêu cầu giải quyết.

Tại văn bản ngày 08/01/2021, con chung của bà L.a và ông L là Hứa Phước L, Hứa Bùi Lan Kh đều có nguyện vọng sống với bà L.a khi bà L.a và ông L ly hôn với nhau.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa có thông báo cho ông L biết về yêu cầu khởi kiện của bà L.a nhưng ông L không có ý kiến phản hồi, Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa đã tiến hành các thủ tục tố tụng tiếp theo theo quy định của pháp luật nhưng ông L cũng không đến Tòa án nên Tòa án không tiến hành hòa giải được về việc nuôi con chung Tại phiên tòa, bà L.a giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông L, bà xin được tiếp tục nuôi các con chung Hứa Phước L, Hứa Bùi Lan Kh và Hứa Phúc L, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con, đối với con chung Hứa Tấn L đã trưởng thành.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

1.1. Bà Bùi Thị Thúy L.a xin ly hôn với ông Hứa L là thuộc quan hệ tranh chấp về hôn nhân và gia đình.

1.2. Ông Hứa L là bị đơn có địa chỉ thường trú ấp M1, xã M, huyện Đ, tỉnh L nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

1.3. Ông Hứa L vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông L theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3]. Về nội dung:

3.1. Bà Bùi Thị Thúy L.a và ông Hứa L được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2002 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Mày, huyện M, tỉnh B vào năm 2012 là phù hợp theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà L.a cho rằng nguyên nhân bà xin ly hôn với ông L là do vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng vì cuộc sống hôn nhân giữa bà và ông L không còn hòa hợp, thường xuyên cải vã nhau, ông L có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nên tình cảm của bà đối với ông L không còn nữa.

Đối với ông Hứa L, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định nhưng vẫn không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà L.a. Tại phiên tòa hôm nay, ông L vẫn vắng mặt, chứng tỏ ông L không có thiện chí để hàn gắn tình cảm với bà L.a.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng đời sống chung vợ chồng của bà L.a và ông L không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của bà L.a đối với ông L là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

3.2. Về con chung: Bà L.a cho rằng quá trình bà và ông L chung sống với nhau có bốn con chung Hứa Tấn L, sinh năm 2002 (đã trưởng thành), Hứa Phước L, sinh ngày 16/6/2008, Hứa Bùi Lan Kh, sinh ngày 27/6/2012 và Hứa Phúc L, sinh ngày 08/7/2014. Khi ly hôn bà xin được tiếp tục nuôi con chung Hứa Phước L, Hứa Bùi Lan Kh và Hứa Phúc L, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con. Đối với Hứa Tấn L đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Thấy rằng con chung Hứa Phước L, Hứa Bùi Lan Kh có nguyện vọng sống vưới bà L.a khi bà L.a và ông L ly hôn với nhau, mặt khác từ khi bà L.a và ông L ly thân nhau cho đến nay con chung Hứa Phúc L hiện nay do bà L.a trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của các con chung. Do đó, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển ổn định cho các con chung, Hội đồng xét xử thấy rằng cần giao con chung tên Hứa Phước L, Hứa Bùi Lan Kh và Hứa Phúc L cho bà L.a tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Đối với ông L không có văn bản phản hồi ý kiến về vấn đề con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này, bà L.a và ông L có tranh chấp về việc nuôi con chung thì sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

Tại phiên tòa, bà L.a không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3.3. Về tài sản chung: Bà L.a xác định không có tài sản chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

3.4. Về nợ chung: Bà L.a khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về án phí: Bà Bùi Thị Thúy L.a phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 9 và Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị Thúy L.a về việc xin ly hôn với ông Hứa L. Bà Bùi Thị Thúy L.a được ly hôn với ông Hứa L.

2. Về con chung: Bà Bùi Thị Thúy L.a được tiếp tục nuôi con chung tên Hứa Phước L, sinh ngày 16/6/2008, Hứa Bùi Lan Kh, sinh ngày 27/6/2012 và Hứa Phúc L, sinh ngày 08/7/2014 (Bà L.a đang nuôi dưỡng), ông Hứa L không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà L.a không yêu cầu, đối với con chung Hứa Tấn L, sinh năm 2002 đã trưởng thành. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi tình trạng và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Bùi Thị Thúy L.a phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0007142 ngày 17/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An sang án phí để thi hành. Bà L.a không phải nộp tiếp.

Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 29/01/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:36/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về