Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 24/02/2021 về ly hôn và nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU

BẢN ÁN 36/2021/HNGĐ-ST NGÀY 24/02/2021 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 24 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 614/2020/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2020, về việc xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2021, giữa:

- Nguyên đơn: Anh Đỗ Thành T, sinh năm 1977 (có mặt) Hộ khẩu thường trú: Số P, xã T, huyện Th, Thành phố H.

Địa chỉ đăng ký tạm trú: phòng A, đường N, khóm P, Phường 1, thành phố C, tỉnh M.

- Bị đơn: Chị Trần Trúc L, sinh năm 1986 (có mặt) Hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã Đ, huyện H, tỉnh M Địa chỉ: Số A, đường L, khóm V, phường J, thành phố C, tỉnh M.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ngân hàng TMCP H (vắng mặt) Địa chỉ trụ sở: Số A, đường G, Phường Th, Quận D, Thành phố H.

Địa chỉ chi nhánh: Số B, đường L, Phường 6, thành phố C, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trình bày của nguyên đơn là anh Đỗ Thành T trong quá trình giải quyết vụ án, được bổ sung tại phiên tòa thể hiện:

Về hôn nhân, anh và chị L kết hôn năm 2016, đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Th, Thành Phố H. Trong quá trình chung sống với chị L, vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, mâu thuẫn về vấn đề tiền bạc, nuôi dạy con cái, về chênh lệch tuổi tác, trình độ. Anh và chị L đã ly thân nhau, mỗi người sống một nơi, do sống không còn hạnh phúc nên anh yêu cầu được ly hôn với chị L.

Về con chung: Có 01 con chung tên là Đỗ K, sinh ngày 02/11/2017, hiện nay con đang sống chung với anh. Hiện nay thu nhập trung bình của anh khoảng 40.000.000đ/tháng vì vậy, khi ly hôn, anh yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con. Trường hợp Tòa án giao con cho chị L nuôi, anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 5.000.000đ cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Anh xác định không có.

Về nợ chung: Anh xác định không có nợ chung.

Về nợ riêng: Chị L có nợ Ngân hàng TMCP H, chi nhánh C, số tiền 150 triệu đồng. Đây là nợ riêng của chị L nên chị có trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng, không đề cập đến trách nhiệm trả nợ của anh.

Theo bản tự khai và trình bày của bị đơn là chị Trần Trúc L trong quá trình giải quyết vụ án, được bổ sung tại phiên tòa thể hiện:

Về hôn nhân, về thời gian kết hôn, nơi đăng ký kết hôn đúng như anh T trình bày. Quá trình chung sống vợ chồng cũng có mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, nay anh T yêu cầu ly hôn, chị đồng ý.

Về con chung: Có 01 con chung tên là Đỗ K, sinh ngày 02/11/2017. Khi chị chuyển đến nơi ở mới, chị có mang con theo ở cùng, nhưng anh T đã đến ẵm con trở về nhà nên hiện nay con đang sống chung với anh T. Hiện nay chị cũng có công việc và thu nhập ổn định, thu nhập bình quân không cao như anh T nhưng đủ khả năng để nuôi con, con gái cũng còn quá nhỏ nên khi ly hôn, chị cũng yêu cầu nuôi con, yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 5.000.000đ cho đến khi con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Chị xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Chị xác định không có nợ chung.

Về nợ riêng: Vào khoảng năm 2019, chị có vay của Ngân hàng TMCP H, chi nhánh C, số tiền 150 triệu đồng, đây là nợ riêng của chị, chị chịu trách nhiệm cá nhân thanh toán cho Ngân hàng, không đề cập đến trách nhiệm trả nợ của anh T.

* Đối với Ngân hàng TMCP H, chi nhánh C, đã được Tòa án thông báo thụ lý về nội dung vụ án nhưng đến nay Ngân hàng vẫn không gửi cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình và các tài liệu, chứng cứ chứng minh đối với nội dung quyền lợi có liên quan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ngân hàng TMCP H, chi nhánh C, đã được tống đạt hợp lệ nhiều lần để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa xét xử theo quy định vào các ngày 07/01/2021, 20/01/2021, 28/01/2021 và ngày 24/02/2021 nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Anh T và chị L đăng ký kết hôn với nhau ngày 30/9/2016 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Th, Thành Phố H nên là hôn nhân hợp pháp. Anh T yêu cầu được ly hôn và được nuôi con nên quan hệ pháp luật mà các bên tranh chấp được xác định là tranh chấp về ly hôn và nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[3] Về quan hệ hôn nhân, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, anh T và chị L đều cho rằng trong quá trình chung sống, mâu thuẫn giữa hai vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn được nên anh T yêu cầu ly hôn, chị L đồng ý. Xét thấy, thực tế hôn nhân giữa anh T và chị L đã có mâu thuẫn trầm trọng nên đã ly thân nhau, mỗi người sống một nơi, không còn quan tâm chăm sóc, chia sẻ với nhau các vấn đề trong cuộc sống, mục đích hôn nhân không đạt được, nay anh T và chị L thuận tình ly hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện và phù hợp quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận cho ly hôn.

[4] Về con chung: Anh T và chị L có 01 con chung tên là Đỗ K, sinh ngày 02/11/2017, hiện nay con đang sống chung với anh T. Khi ly hôn, anh T và chị L đều yêu cầu được nuôi con. Xét thấy, mặc dù thu nhập giữa anh T và chị L có sự chênh lệch với nhau nhưng đều thể hiện cả hai anh chị đều có đủ điều kiện kinh tế để nuôi con. Tuy nhiên, cháu Đỗ K hiện nay còn nhỏ, lại là bé gái, cần có sự gần gũi, chăm sóc chu đáo từ người mẹ, vì vậy, để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển toàn diện của con, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được trực tiếp nuôi con của chị L.

Anh T không trực tiếp nuôi con thì phải có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 82 của Luật Hôn nhân và gia đình. Anh T đồng ý mức cấp dưỡng nuôi con mà chị L yêu cầu là 5.000.000đ/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi cũng phù hợp với mức thu nhập hàng tháng của anh T, phù hợp với quy định tại Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận. Thời hạn cấp dưỡng nuôi con được tính kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

[5] Về tài sản chung, xét thấy, anh T cho rằng vợ chồng không có tài sản chung, còn chị L cho rằng vợ chồng có tài sản chung nhưng không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

Về nợ chung, anh T và chị L xác định không có nợ chung. Nhưng anh T và chị L đều xác định, chị L có vay nợ riêng Ngân hàng TMCP H, chi nhánh C, số tiền 150.000.000đ, khi ly hôn, chị L có trách nhiệm trả khoản nợ này, không đề cập đến trách nhiệm trả nợ của anh T. Còn Ngân hàng TMCP H, chi nhánh C, không tham gia các phiên họp hòa giải và phiên tòa xét xử, không gửi văn bản thể hiện ý kiến của mình và gửi các tài liệu kèm theo chứng minh để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình về vấn đề này nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét đến khoản nợ này, trường hợp Ngân hàng TMCP H, anh T, chị L có tranh chấp sẽ được khởi kiện bằng vụ án khác theo quy định.

[6] Anh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình và án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con theo quy định Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 147, 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 56, 58, 81, 82, 83, 116 của Luật Hôn nhân và gia đình;

1/ Về hôn nhân: Chấp nhận cho anh Đỗ Thành T ly hôn với chị Trần Trúc L.

2/ Về con chung: Buộc anh Đỗ Thành T giao 01 con chung tên là Đỗ K, sinh ngày 02/7/2017, hiện nay con đang sống chung với anh T, cho chị Trần Trúc L trực tiếp nuôi. Anh T có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 5.000.000đ cho đến khi con đủ 18 tuổi. Thời hạn cấp dưỡng nuôi con được tính kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Trường hợp anh T không tự nguyện cấp dưỡng nuôi con hàng tháng như đã nêu thì kể từ ngày chị L có đơn yêu cầu thi hành án, anh T phải thanh toán xong khoản tiền cấp dưỡng hàng tháng nêu trên, nếu không thì còn phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo quy định tại điều 357 và điều 468 Bộ luật dân sự đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

3/ Về tài sản chung: Không đề cập xem xét.

4/ Về nợ chung: không có.

Về nợ riêng: không đề cập xem xét.

5/ Về án phí dân sự sơ thẩm:

Anh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình là 300.000đ và án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con là 300.000đ, tổng cộng là 600.000đ. Anh T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000đ theo biên lai số 0000215 vào ngày 16/11/2020, được đối trừ, anh T phải nộp tiếp 300.000đ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Anh T và chị L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ngân hàng TMCP H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 24/02/2021 về ly hôn và nuôi con

Số hiệu:36/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về