Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 14/06/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN ĐỀ, TỈNH SÓC TRĂNG

 BẢN ÁN 36/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

 Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh S, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 53/2021/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 39/2021/QĐXXST–HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 25/2021/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Trần Thị T; Sinh năm 1992.

Địa chỉ: Số 280 ấp T, xã T, huyện L, tỉnh S (bà T vắng mặt – có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt).

* Bị đơn: Ông Triệu H; Sinh năm 1992.

Địa chỉ: Ấp B, xã L, huyện T, tỉnh S (ông H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Trần Thị T trình bày:

Bà với ông Triệu H tổ chức lễ cưới vào năm 2015 và cũng trong năm 2015, ông bà đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh S và được Ủy ban nhân dân xã T cấp giấy chứng nhận kết hôn số 59/2015 ngày 24 tháng 4 năm 2015. Ông bà chung sống hạnh phúc cho đến năm 2020 thì phát sinh sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai người bất đồng ý kiến, thường xuyên cãi vã nhau. Ông H không quan tâm đến vợ con, hay dùng bạo lực gia đình. Do không thể chịu đựng được nữa nên tháng 5 năm 2020, bà T dẫn con về nhà cha mẹ ruột của bà ở số 280 ấp T, xã T, huyện L, tỉnh S sinh sống cho đến nay.

Trong quá trình chung sống, bà T với ông H có một con chung tên Triệu Trần K L, sinh ngày 11/12/2015. Hiện cháu đang sống cùng bà T.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Nay bà Trần Thị T yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

- Về hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với ông Triệu H.

- Về con chung: Yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu ông Triệu H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Triệu H không có lời trình bày do vắng mặt.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã ban hành thông báo thụ lý số 53/TB-TLVA ngày 04 tháng 3 năm 2021, tống đạt hợp lệ cho bị đơn ông Triệu H nhưng ông Triệu H không có văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của Bà Trần Thị T. Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ hai lần đối với ông Triệu H để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông Triệu H đều vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành mở phiên họp và đã lập biên bản không tiến hành hòa giải được. Đồng thời đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tính đến ngày Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử, vụ án còn trong thời hạn chuẩn bị xét xử theo điểm a khoản 1 Điều 203 Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị T ly hôn với ông Triệu H. Về con chung: Giao con cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng và giáo dục, ông Triệu H không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tại phiên tòa hôm nay, bà Trần Thị T và ông Triệu H đều vắng mặt nhưng nguyên đơn bà T có đơn yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, còn ông H mặc dù đã được tống đạt giấy triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do đó Tòa án căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án xét xử vắng mặt đối với bà T và Ông H.

[2] Về nội dung: Nguyên đơn bà Trần Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện là yêu cầu Toà án cho ly hôn với ông Triệu H, yêu cầu được nuôi con và không yêu cầu ông Triệu H cấp dưỡng nuôi con. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa bà Trần Thị T với ông Triệu H là hôn nhân hợp pháp (hai người có đăng ký kết hôn). Trước khi kết hôn hai người có tìm hiểu nhau trước, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không bị ép buộc. Hai người chung sống hạnh phúc cho đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do hai người bất đồng ý kiến, thường xuyên cãi vã nhau. ông H không quan tâm đến vợ con, hay dùng bạo lực gia đình. Hai người không còn chung sống với nhau từ tháng 5 năm 2020. Thời gian ly thân vợ chồng không ai tới lui, chăm sóc nhau. Xét thấy tình trạng hôn nhân của hai người đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó bà Trần Thị T yêu cầu được ly hôn với ông Triệu H là có căn cứ được quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Cháu Triệu Trần K L, sinh ngày 11/12/2015 đang sống cùng bà T. Bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con. Xét thấy, bà T có đủ điều kiện nuôi con nên yêu cầu này là có căn cứ chấp nhận được quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định tại Điều 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Do bà T không yêu cầu nên ông H không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung: Bà T trình bày không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7] Về nợ chung: Bà T trình bày không có, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Do bà T yêu cầu nên bà T phải chịu theo luật định.

[9] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về nội dung vụ án là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị T.

- Về hôn nhân: Bà Trần Thị T được quyền ly hôn với ông Triệu H.

- Về con chung: Giao cháu Triệu Trần K L, sinh ngày 11/12/2015 cho bà Trần Thị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Ông Triệu H không phải cấp dưỡng nuôi con. Ông Triệu H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Trường hợp ông Triệu H lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà Trần Thị T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của ông Triệu H. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người nuôi con, giải quyết việc cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn bà Trần Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2017 0005923 ngày 04/3/2021của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S. Như vậy bà Trần Thị T đã nộp xong án phí.

- Về quyền kháng cáo bản án: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 36/2021/HNGĐ-ST ngày 14/06/2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:36/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Đề - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về