Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về kiện xin ly hôn

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 36/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2020 VỀ KIỆN XIN LY HÔN

Trong ngày 17/9/2020 tại Hội trường Toà án nhân dân thành phố Đồng Hới, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 157/2020/TLST-HNGĐ ngày 09/6/2020 về kiện xin ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2020/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm: 1980

Địa chỉ: Đường L, Tổ dân phố X, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình.

Địa chỉ cần báo: Số A ngõ B đường L, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt

- Bị đơn: Anh Mai Quang T, sinh năm: 1977

Địa chỉ: Đường L, Tổ dân phố X, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Về quan hệ hôn nhân:

* Trong đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 05/6/2020, được bổ sung tại bản tự khai, qua các phiên hòa giải và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Nguyễn Thị L trình bày: Chị và anh Mai Quang T có đăng ký kết hôn vào ngày 04/4/2002 tại UBND phường H, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên cải vã, bất đồng, không tìm thấy tiếng nói chung, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Nguyên nhân là do anh T thường xuyên nhậu nhẹt, rượu chè và bất đồng quan điểm khác trong cuộc sống. Mặc dù chị L đã nhiều lần khuyên nhủ, can ngăn nhưng anh T không hề thay đổi, không quan tâm đến gia đình. Hai bên gia đình cũng đã hòa giải nhưng không cải thiện được tình hình. Vợ chồng đã sống ly thân hơn 02 năm nay. Nay chị L thấy mâu thuẫn không hòa giải được, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc nên mong muốn được ly hôn với anh T.

* Tại bản tự khai, qua các buổi hòa giải cũng như tại phiên tòa, anh Mai Quang T trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị L có đăng ký kết hôn vào ngày 04/4/2002 tại UBND phường H, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Mặc dù cuộc sống có xảy ra một số mâu thuẫn, cải vã nhưng không có gì trầm trọng. Thực tế vợ chồng đã sống ly thân hơn 01 năm nhưng anh Tuân vẫn thương yêu vợ con. Do đó, nay chị L làm đơn xin ly hôn, anh T không đồng ý ly hôn và mong muốn chị L suy nghĩ lại, vợ chồng đoàn tụ, cùng nhau nuôi dạy con cái, xây dựng hạnh phúc.

- Về nuôi con chung: Chị L và anh T đều thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng có 03 con chung là cháu Mai Thị Kiều T, sinh ngày 12/9/2002; cháu Mai Khánh L, sinh ngày 26/4/2007 và cháu Mai Quang H, sinh ngày 24/01/2017. Chị L, anh T đều có nguyện vọng được nuôi cả 03 con chung và không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

- Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh T đều thừa nhận vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về thủ tục tố tụng:

Chị Nguyễn Thị L có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự là nơi bị đơn anh Mai Quang T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại Đường L, Tổ dân phố X, phường H, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới.

Sau khi thụ lý vụ án theo đúng thẩm quyền, Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới đã ra thông báo thụ lý vụ án và gửi cho các bên đương sự kèm theo giấy triệu tập đến Tòa án để làm bản tự khai. Tòa án tiến hành thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tiến hành phiên hòa giải theo quy định của pháp luật. Tại các phiên hòa giải ngày 23/7/2020, ngày 07/8/2020 và ngày 21/8/2020, chị L và anh T chưa thống nhất được các mối quan hệ, nên vụ án hòa giải không thành. Vì vậy, Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, tiến hành tống đạt các thủ tục tố tụng cho các bên đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Nguyễn Thị L và anh Mai Quang T đã xây dựng gia đình với nhau trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền, nên đây là một cuộc hôn nhân hợp pháp. Trong đơn xin ly hôn, tại các buổi hòa giải và tại phiên tòa, chị L cho rằng cuộc sống chung của vợ chồng không có hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do hai bên không hợp nhau về tính cách, không tìm được tiếng nói chung, không quan tâm gì đến nhau. Bản thân anh T hay rượu chè, thiếu quan tâm đến vợ con và cuộc sống gia đình. Vợ chồng đã sống ly thân, bỏ mặc không quan tâm đến nhau hơn 02 năm cho đến nay. Nguyện vọng của chị L mong muốn được ly hôn với anh T.

Quá trình hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay, anh T thừa nhận cuộc sống chung vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn và vợ chồng hiện đã sống ly thân nhưng theo anh T những mâu thuẫn phát sinh trong đời sống chung của vợ chồng không có gì trầm trọng. Bản thân anh T cũng có những lúc nhậu nhẹt với bạn bè nhưng chỉ cho vui không ảnh hưởng gì đến cuộc sống hôn nhân. Mặc dù đã sống ly thân nhưng anh T vẫn luôn thương yêu vợ con và mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình. Anh T có nguyện vọng đề nghị Tòa án tạo điều kiện về thời gian để anh T tìm cách khắc phục mâu thuẫn, thuyết phục chị L. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tạo điều kiện về thời gian cũng như nỗ lực tổ chức 03 phiên hòa giải để anh, chị khắc phục mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm, cùng nhau đoàn tụ, xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng không có kết quả. Anh T không đưa ra được giải pháp khắc phục mâu thuẫn, qua thời gian Tòa án tạo điều kiện để suy nghĩ cũng như thuyết phục chị L theo nguyện vọng của anh T, anh T không có biện pháp gì để níu kéo hạnh phúc, vợ chồng không ngồi lại bàn bạc, thảo luận về việc giải quyết mâu thuẫn. Cho đến trước ngày diễn ra phiên hòa giải lần thứ 3, anh T mới đến nhà gặp chị L để bàn chuyện hòa giải nhưng chị L vẫn giữ nguyên quan điểm và yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Hi đồng xét xử xét thấy vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng chia sẻ và thực hiện các công việc trong gia đình nhưng anh chị đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau, đời sống chung không còn tồn tại, cuộc sống không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lộc, xử cho chị L được ly hôn với anh T là hoàn toàn phù hợp.

[2.2] Về nuôi con chung:

Chị L và anh T đều thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng có 03 con chung là cháu Mai Thị Kiều T, sinh ngày 12/9/2002; cháu Mai Khánh L, sinh ngày 26/4/2007 và cháu Mai Quang H, sinh ngày 24/01/2017. Chị L, anh T đều có nguyện vọng được nuôi cả 03 con chung và không yêu cầu người không trực tiếp nuôi con phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy, cháu Mai Thị Kiều T, sinh ngày 12/9/2002 hiện tròn 18 tuổi, đã trưởng thành. Các cháu Mai Khánh L, sinh ngày 26/4/2007 và cháu Mai Quang H, sinh ngày 24/01/2017 còn nhỏ, đang tuổi ăn học, cần nhiều sự chăm sóc nuôi dưỡng từ người mẹ đồng thời hiện các cháu cũng đang sống với mẹ. Bản thân anh T làm nghề lái xe taxi thường xuyên vắng nhà. Do đó, cần giao 02 con chung là cháu Mai Khánh L, sinh ngày 26/4/2007 và cháu Mai Quang H, sinh ngày 24/01/2017 cho chị L trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Phần cấp dưỡng nuôi con chung chị L cam đoan đủ khả năng nuôi con không yêu cầu anh T đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Mặc dù đã được giải thích về nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng chị L vẫn giữ nguyên quan điểm. Vì vậy không buộc anh T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung là hoàn toàn phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về chia tài sản và nợ chung: Chị L và anh T đều thừa nhận quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.

[2.4] Về án phíCác bên đương sự phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; Điều 227; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 147 BLTTDS; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, cho chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Mai Quang T.

2. Về nuôi con chung: Giao con chung là cháu Mai Khánh L, sinh ngày 26/4/2007 và cháu Mai Quang H, sinh ngày 24/01/2017cho chị L trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng. Anh T không có nghĩa vụ đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực triếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc con, không ai được ngăn cản người đó thực hiện quyền này.

3.Về tài sản chung: Không xem xét.

4. Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm buộc chị Nguyễn Thị L phải nộp số tiền 300.000 đồng để sung quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số AA/2017/0006490 ngày 09/6/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đồng Hới. Án xử công khai, các đương sự có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 17/9/2020) để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 17/09/2020 về kiện xin ly hôn

Số hiệu:36/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Hới - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về