Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 36/2020/HNGĐ-ST NGÀY 05/05/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 05 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 96/2020/TLST–HNGĐ ngày 18/02/2020, về việc: “Ly hôn”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 3 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Trương Văn Kh, sinh năm 1977 Địa chỉ: khóm Đ5, phường Đ, thành phố X, tỉnh An Giang .(Có mặt)

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1984 Địa chỉ: khóm Đ5, phường Đ, thành phố X, tỉnh AG.(Có đơn xin vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn ông Trương Văn Kh trình bày: Ông và bà Nguyễn Thị B kết hôn vào năm 2007 trên cơ sợ tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố X, tỉnh AG, đây là hôn nhân lần thứ nhất của cả hai. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn vì bất đồng quan điểm, đời sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết:

+ Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị B + Về quan hệ con chung: Có 02 con chung Trương Nguyễn Bảo Kh, ngày 11/8/2010 và Trương Nguyễn Bảo Kh1, sinh ngày 09/11/2014. Hiện hai con chung đang do ông nuôi dưỡng sau khi ly hôn ông yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con và không yêu cầu bà B cấp dưỡng nuôi con.

+ Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Không có - Phần trình bày của bị đơn bà Nguyễn Thị B tại biên bản lấy lời khai ngày 22/4/2020 do Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên lập thể hiện nội dung:

+ Về quan hệ hôn nhân bà xác định hôn nhân giữa bà với ông Kh vào năm 2001 và sau đó hai bên mới đi đăng ký kết hôn vào năm 2007 trên cơ sở tự nguyện và kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố X, tỉnh AG. Đây là hôn nhân lần thứ nhất của cả hai. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn vì giữa vợ chồng chung sống bất đồng quan điểm dẫn đến giữa vợ chồng thường xuyên cự cãi. Nay, ông Kh yêu cầu ly hôn thì bà đồng ý.

Hiện nay, tình cảm vợ chồng đã không còn và khó có khả năng hàn gắn do đó bà đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn giữa bà với ông Kh + Về quan hệ con chung: Có có 02 con chung Trương Nguyễn Bảo Kh, ngày 11/8/2010 và Trương Nguyễn Bảo Kh1, sinh ngày 09/11/2014. Hiện hai con đang do ông Kh nuôi dưỡng nên khi ly hôn ông Kh có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng hai con và không yêu cầu bà cấp dưỡng nuôi con thì bà đồng ý sau khi ly hôn để con chung cho ông Kh tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng còn ông Kh không có yêu cầu thì khi có tiền bà sẽ cấp dưỡng theo khả năng của mình.

Bà có ý kiến là mặc dù bà không nuôi dưỡng con chung nhưng bà yêu cầu ông Kh phải tạo điều kiện để bà được quyền tới lui, chăm sóc và thăm các con của mình, ông Kh không được cấm cản bà hay hạn chế việc thăm nom con.

+Về tài sản chung và về nợ chung: Không có Đồng thời, bà B có yêu cầu Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với vụ án này do bà hiện đang đi làm ăn ở tại Thành phố Hồ Chí Minh mà công ty của bà rất khó khăn trong việc cho nghỉ phép, việc đi lại vô cùng khó khăn nên bà đề nghị xét xử vắng mặt đối với vụ án ly hôn giữa bà với ông Kh Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Trương Văn Kh vẫn giữ yêu cầu khởi kiện và bị đơn bà Nguyễn Thị B có yêu cầu xin vắng mặt không tham dự phiên tòa.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn giữa ông Trương Văn Kh với bà Nguyễn Thị B; Về quan hệ con chung Trương Nguyễn Bảo Kh, ngày 11/8/2010 và Trương Nguyễn Bảo Kh1, sinh ngày 09/11/2014 hiện con chung đang được ông Kh nuôi dưỡng ổn định nên công nhận sự thỏa thuận của ông Kh và bà B sau khi ly hôn giao con chung cho ông Kh tiếp tục nuôi dưỡng và ông Kh không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét, giải quyết.Về quan hệ tài sản chung, nợ chung không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa và ý kiến của vị Kiểm sát viên tham gia phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Nguyễn Thị B có yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của bà B là phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn bà B.

[2] Về thẩm quyền: Ông Trương Văn Kh khởi kiện xin ly hôn với bà Nguyễn Thị B đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Theo đơn khởi kiện, ý kiến trình bày của ông Trương Văn Kh tại phiên tòa và biên bản lấy lời khai của bà B ngày 22/4/2020 thể hiện, về quan hệ hôn nhân giữa ông Trương Văn Kh với bà Nguyễn Thị B tự quen biết và đi đến hôn nhân, cả hai có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, thành phố X, tỉnh AG theo Giấy chứng nhận kết hôn số 248/KH-2007, quyển số 01, ngày 08/12/2007. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống và vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay.

Giữa ông Kh và bà B thống nhất có ý kiến đề nghị Tòa án giải quyết cho cả hai được ly hôn và không yêu cầu tòa án hòa giải hàn gắn. Hội đồng xét xử nhận thấy, trong cuộc sống hôn nhân phải trên cơ sở tự nguyện ông Kh và bà B thống nhất ly hôn, hôn nhân giữa hai bên không còn tồn tại trên thực tế từ năm 2019 cho đến nay, giữa vợ chồng không còn thực hiện các quyền và nghĩa vụ với nhau, cũng như không có giải pháp nhằm hàn gắn, duy trì cuộc hôn nhân. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu xin ly hôn giữa ông Trương Văn Kh và bà Nguyễn Thị B.

[4] Về con chung: Nguyên đơn ông Kh và bà B thống nhất vợ chồng chung sống với nhau có 02 con chung tên Trương Nguyễn Bảo Kh, ngày 11/8/2010 và Trương Nguyễn Bảo Kh1, sinh ngày 09/11/2014, hiện đang sống cùng với ông Kh, Hội đồng xét xử nhận thấy cháu Kh và cháu Kh1 chưa thành niên và đang được ông Kh chăm sóc, nuôi dưỡng trực tiếp, cuộc sống của các cháu đã ổn định. Giữa ông Kh, bà B thống nhất được việc chăm sóc nuôi dưỡng con chung là chính đáng, phù hợp với nguyện vọng của cháu Kh mong muốn sống cùng với cha theo biên bản ghi ý kiến do Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên lập ngày 14/02/2020 nên có cơ sở được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, bà B không trực tiếp nuôi con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định, tuy nhiên ông Kh xác định không yêu cầu bà B phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Ông Kh, bà B trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Kh phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 143; khoản 1 Điều 146; khoản 4 Điều 147; Điều 186; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228; Điều 232; điểm b khoản 1 Điều 238; Điều 271; Điều 273; Điều 278 và Điều 280 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 51, Điều 53, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Thị B - Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trương Văn Kh đối với bà Nguyễn 1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Trương Văn Kh với bà Nguyễn Thị B 2. Về nuôi con chung:

2.1. Sau khi ly hôn giao con chung cháu Trương Nguyễn Bảo Kh, ngày 11/8/2010 và cháu Trương Nguyễn Bảo Kh1, sinh ngày 09/11/2014 cho ông Trương Văn Kh trực tiếp nuôi dưỡng.

2.2. Bà Nguyễn Thị B không phải cấp dưỡng nuôi con chung do ông Kh không có yêu cầu.

2.3. Ông Kh phải tạo điều kiện cho bà B trong việc trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng con chung. Việc cấp dưỡng và nuôi con chung không cố định.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có 4. Về án phí sơ thẩm:

4.1. Ông Trương Văn Kh phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0010000 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên ngày 14/02/2020. Ông Kh đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

4.2. Bà Nguyễn Thị B không phải nộp tiền án phí sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Ông Trương Văn Kh được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng, bà Nguyễn Thị B được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương nơi cư ngụ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2020/HNGĐ-ST ngày 05/05/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:36/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về