Bản án 36/2019/HS-ST ngày 04/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 36/2019/HS-ST NGÀY 04/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 4 năm 2019 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân Quận 7 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2019/HSST ngày 22 tháng 01 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2019/QĐXXST-HS ngày 06/3/2019 và Thông báo dời ngày xét xử ngày 27/3/2019 đối với bị cáo họ và tên:

Trần Thị Kim N, tên gọi khác: /; giới tính: Nữ; sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường S, phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: Đường S, hẻm T, khu phố F, phường H, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Nhân viên bán hàng; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; con ông Võ Tấn Đ và bà Trần Thị Kim A; bị cáo chưa có chồng, có 01 con sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt phạm tội quả tang và tạm giam từ ngày 29/10/2018, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Trường Đ1, sinh năm 1993; địa chỉ: Đường P, phường T, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2/ Bà Nguyễn Thị Đ2, sinh năm 1991; địa chỉ: Ấp A, xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. (vắng mặt)

3/ Bà Ngô Thị Nguyệt T, sinh năm 1959; địa chỉ: Đường T, phường E, thành phố H, tỉnh Phú Yên. (vắng mặt)

4/ Bà Lê Trần Thanh V, sinh năm 1999; địa chỉ: Đường H, phường S, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

Người làm chứng:

1/ Bà Nguyễn Thị Kim X, sinh năm 1999; địa chỉ: Đường T, phường M, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2/ Ông Nguyễn Tấn L, sinh năm 1996; địa chỉ: Đường H, phường B, quận X, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

3/ Ông Trần Bá Quốc V1, sinh năm 1996; địa chỉ: Đường P, thị trấn N, huyện N, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

4/ Ông Bùi Duy A1, sinh năm 1995; địa chỉ: Đường L, phường D, quận V, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

5/ Ông Phạm Tấn T1, sinh năm 1997; địa chỉ: Đường T, phường M, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 06 giờ ngày 29/10/2018, Công an phường Tân Hưng, Quận 7 phối hợp Đội Cảnh sát điều tra tội phạm ma túy – Công an Quận 7 kiểm tra phòng C02.04 Chung cư Hoàng Anh Thanh Bình phát hiện 08 người nam, nữ  có sử dụng ma túy gồm: Nguyễn Thị Kim X, Nguyễn Tấn L, Phạm Tấn T1, Trần Bá Quốc V1, Bùi Duy A1, Trần Thị Kim N, Nguyễn Thị Đ2 và Nguyễn Trường Đ1, thu giữ trên dĩa màu trắng có 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng do Nguyễn Thị Đ2 khai nhận của mình mang đến, thu giữ bên trong chiếc túi màu vàng bằng nhựa của Trần Thị Kim N có 02 viên nén màu xanh.

Tại Công an Quận 7, N khai nhận: Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 28/10/2018 N đi chơi cùng các bạn Đ2, V1, Đ1, X, A1, L, T1 và một số bạn khác tại quán Bar H, đường T, quận M. Tại đây N và các bạn có sử dụng ma túy, nguồn ma túy do ai mua N không biết. Sau khi tính tiền ra về N thấy 01 gói nylon chứa 02 viên nén màu xanh (ma túy tổng hợp) để trên bàn, N lấy cất vào túi xách của mình rồi về nhà. Khoảng 01 giờ, ngày 29/10/2018 Nguyễn Trường Đ1 gọi điện cho N hỏi mượn laptop để nghe nhạc. N đồng ý đem laptop đến phòng C02.04 Chung cư Hoàng Anh Thanh Bình, tại đây N không sử dụng ma túy. Đến 06 giờ ngày 29/10/2018 Công an Quận 7 kiểm tra phòng ngủ phòng C02.04 phát hiện N cùng các bạn trên đang có mặt tại đây, công an thu giữ 01 gói nylon chứa 02 viên nén màu xanh trong túi xách của N với mục đích tàng trữ để sử dụng, việc N tàng trữ 02 viên ma túy trong túi xách, các bạn trong phòng không biết.

Tại Công an Quận 7, Nguyễn Thị Đ2 khai nhận: Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 28/10/2018 sau khi  đi chơi cùng các bạn tại quán Bar H, quận M. Tại đây Đ2 và các bạn có sử dụng ma túy, nguồn ma túy do ai mua Đ2 không biết. Sau khi tính tiền ra về, Đ2 thấy 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng (ma túy tổng hợp) để trên bàn nên Đ2 cất vào túi xách của mình.Sau đó Đ2 cùng các bạn đến phòng C02.04 Chung cư Hoàng Anh Thanh Bình, tại đây Đ2 bỏ ma túy đổ ra đĩa để trên bàn trong phòng cho các bạn ai sử dụng thì sử dụng. Đến 06 giờ ngày 29/10/2018 Công an Quận 7 kiểm tra phòng C02.04 thu giữ của Đ2 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng trên đĩa. Đ2 tàng trữ ma túy để sử dụng.

Qua xác minh, phòng C02.04 Chung cư Hoàng Anh Thanh Bình do bà Ngô Thị Nguyệt T  làm chủ. Ngày 23/10/2018 bà T cho Lê Trần Thanh V thuê để ở. Tuy nhiên ngày 25/10/2018 V cho một người tên T2 (không rõ lai lịch) thuê lại nhưng chưa làm hợp đồng cho thuê.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Trường Đ1 khai, Đ1 gọi điện thoại cho V2 (không rõ lai lịch) đặt thuê phòng C02.4 một đêm với giá 2.500.000 đồng, Đ1 và các bạn sẽ hùn tiền trả tiền phòng nhưng chưa trả tiền thì bị Công an bắt.

Vật chứng vụ án:

- 02 (hai) gói ma túy niêm phong.

- Thu giữ của Trần Thị Kim N: 01(một) điện thoại di động Oppo màu đỏ; 01 (một) máy tính Laptop hiệu Dell, màu đen; 01 (một) túi xách màu vàng.

- Thu giữ của Nguyễn Thị Đ2: 01 (một) điện thoại di động Iphone X màu trắng.

Kết luận giám định số 1767/KLGĐ-H ngày 05/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh:

 “+ Gói 1: Bột màu trắng trong 01 gói ny lon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Đ2 và hình dấu Công an phường Tân Hưng, Quận 7, cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối  lượng 0,5165 gr (không phẩy năm một sáu năm gam) loại Ketamine;

+ Gói 2: 02 viên nén tròn màu xanh trong 01 gói ny lon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Trần Thị Kim N và hình dấu Công an phường Tân Hưng, Quận 7, cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối  lượng 0,8404 gr (không phẩy tám bốn không bốn gam), loại MDMA.”.

Tại Cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Bản Cáo trạng số 29/CT-VKSQ7 ngày 21/01/2019 Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 truy tố bị cáo Trần Thị Kim N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận, số ma túy Cơ quan điều tra thu giữ trong túi xách bị cáo là ma túy của bị cáo cất giữ nhằm mục đích sử dụng.

Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 7 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; đề nghị xử phạt bị cáo Trần Thị Kim N từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

Xử lý vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy 02 gói ma túy niêm phong và túi xách bị cáo N dùng để chứa ma túy; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Oppo màu đỏ và 01 laptop hiệu Dell; trả lại cho chị Nguyễn Thị Đ2 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng.

Đối với Nguyễn Thị Đ2 có hành vi tàng trữ 0,5165 gr là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine, chưa đủ định lượng nên Cơ quan điều tra Công an Quận 7 không xử lý hình sự chuyển hồ sơ về địa phương xử phạt hành chính theo quy định là có căn cứ.

Đối với Bùi Duy Anh, Trần Bá Quốc V1, Nguyễn Tấn L, Phạm Tấn T1, Nguyễn Thị Kim X và Nguyễn Trường Đ1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an Quận 7 chuyển hồ sơ về địa phương xử phạt hành chính, đưa người nghiện ma túy vào cơ sở xã hội theo quy định là phù hợp.

Đối với Ngô Thị Nguyệt T là chủ căn hộ C02.04 Chung cư Hoàng Anh Thanh Bình không biết việc 08 người thuê phòng tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy nên không xử lý hình sự là có căn cứ.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 7, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 7, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các đương sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo Trần Thị Kim N đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng; theo Kết luận giám định số 1767/KLGĐ-H ngày 05/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh ma túy bị phát hiện bắt quả tang thu giữ của bị cáo có khối lượng 0,8404 gr (không phẩy tám bốn không bốn gram) là ma túy ở thể rắn, loại MDMA. Do đó, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm, vì tội phạm về ma túy gây tác hại lớn cho con người và xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác nên cần có mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Song xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và là lao động chính đang trực tiếp nuôi con nhỏ; nên Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy gói ma túy niêm phong và túi xách bị cáo dùng để chứa ma túy;

Đối với chiếc điện thoại di động Oppo màu đỏ, 01 laptop hiệu Dell thu giữ của bị cáo và chiếc điện thoại di động hiệu Iphone X thu giữ của chị Nguyễn Thị Đ2 là tài sản riêng của bị cáo và chị Đ2; không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại.

Đối với Nguyễn Thị Đ2 có hành vi tàng trữ 0,5165 gr là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine, chưa đủ định lượng nên Cơ quan điều tra Công an Quận 7 không xử lý hình sự chuyển hồ sơ về địa phương xử phạt hành chính theo quy định là có căn cứ.

Đối với Bùi Duy A1, Trần Bá Quốc V1, Nguyễn Tấn L, Phạm Tấn T1, Nguyễn Thị Kim X và Nguyễn Trường Đ1 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Công an Quận 7 chuyển hồ sơ về địa phương xử phạt hành chính, đưa người nghiện ma túy vào cơ sở xã hội theo quy định là phù hợp.

Đối với Ngô Thị Nguyệt T là chủ căn hộ C02.04 Chung cư Hoàng Anh Thanh Bình không biết việc 08 người thuê phòng tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự là có căn cứ.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Thị Kim N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

1. Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Trần Thị Kim N 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29/10/2018.

2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) gói ma túy niêm phong, 01 (một) túi xách màu vàng.

2.2. Trả lại cho bị cáo 01 (một) điện thoại di động hiệu 0ppo màu đỏ; 01 (một) Laptop hiệu Dell màu đen.

2.3. Trả lại cho chị Nguyễn Thị Đ2 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng.  (theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 47 ngày 17/01/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 7.)

3. Về án phí: Áp dụng các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

4. Về quyền và nghĩa vụ thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi , bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, bị cáo, các đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Tp. Hồ Chí Minh. Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

210
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HS-ST ngày 04/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 7 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về