Bản án 36/2019/HS-PT ngày 24/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 36/2019/HS-PT NGÀY 24/01/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Mở phiên tòa ngày 24/01/2019, tại trụ sở TAND tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 466/2018/TLPT-HS ngày 24/12/2018, đối với các bị cáo Nguyễn Anh Đ và Huỳnh Vĩnh H, do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2018/HS-ST ngày 13/11/2018 của TAND huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk.

Các bị cáo bị kháng nghị:

1. NGUYỄN ANH Đ (Tên gọi khác: T), sinh năm 1991 tại tỉnh Đắk Lắk

Nơi cư trú: Thôn M, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Làm nông; Con ông: Nguyễn Viết C, sinh năm 1960 và bà: Nguyễn Thị H, sinh năm 1962.

Nhân thân: Ngày 04/02/2016, bị TAND thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 20/6/2018, tạm giam ngày 26/6/2018, hiện đang tạm giam: có mặt

2. HUỲNH VĨNH H (Tên gọi khác: Q), sinh năm 1999 tại tỉnh Đắk Lắk.

Nơi cư trú: Tổ dân phố B, thị trấn M, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Thợ cơ khí; Con ông: Huỳnh Vĩnh Đ, sinh năm 1968 và bà: Nguyễn Thị Thúy T, sinh năm 1970.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 20/6/2018, tạm giam ngày 26/6/2018, hiện đang tạm giam: Có mặt.

Trong vụ án còn có bị cáo Trần Hữu P nhưng không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ ánđược tóm tắc như  sau sau:

Nguyễn Anh Đ, Huỳnh Vĩnh H và Trần Hữu P là bạn với nhau và đều nghiện chất ma túy. Đầu tháng 6/2018, Đ, H và P bàn nhau mua ma túy đá về bán một phần cho người có nhu cầu sử dụng để kiếm lời, phần còn lại để sử dụng. Trưa ngày 19/6/2018, thông qua mạng Internet, Đ biết số điện thoại của một người đàn ông tên là Trần Văn N, cư trú tại phường S, quận G, thành phố H bán ma túy đá, nên Đ điện thoại cho N trao đổi và đồng ý chuyển tiền cho N 3.000.000đ để mua ma túy; N thông báo cho Đ biết sau khi nhận được tiền, sẽ chuyển ma túy cho Đ theo xe ô tô chở khách H chạy tuyến thành phố H đến huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Sau khi thỏa thuận với N, Đ điện thoại yêu cầu P đến siêu thị X, tại thị trấn M, huyện K chuyển tiền mua ma túy cho N 3.000.000đ, theo số điện thoại của N 0937.512.078 nhưng do P không có chứng minh nhân dân, nên không thực hiện được việc chuyển tiền. Sau đó, P đưa tiền cho H và chở H đến siêu thị X chuyển 3.000.000đ cho N, để mua ma túy.

Trưa ngày 20/6/2018, Đ và H bàn bạc với nhau tìm cách lấy gói ma túy, được N gửi từ thành phố H về huyện K, theo xe chở khách H. Đ chở H bằng xe mô tô đến gần nhà xe khách H, tại tổ dân phố N, thị trấn M, huyện K để dò xét và thấy một số người lạ mặt. Đ và H nghi ngờ những người lạ mặt này là công an, nên bàn bạc với nhau nhờ người chạy xe ôm đến lấy gói ma túy. Sau đó, Đ điện thoại cho ông Lê T là người chạy xe ôm, đến nhà xe khách H lấy gói ma túy đựng trong hộp Modum Wifi, bên ngoài ghi “Anh T, cùng với số điện thoại 0941.971.715” và mang gói hàng đến trường tiểu học S, thuộc thôn C, xã H, huyện K, giao cho Đ. Ông T không biết gói hàng là ma túy, nên đã chạy xe ôm đến nhà xe khách H lấy gói ma túy và trả tiền cước phí vận chuyển 30.000đ.

Sau khi điện thoại cho ông T, Đ và H đến nhà Trần Hữu P ở phía sau trường tiểu học A. Tại đây, H đi vào nhà vệ sinh, Đ nói với P đi ra trước cổng trường dò xét xem có công an hoặc có nghi vấn gì, thì báo cho Đ biết. P đi xe đạp ra trước cổng trường dò xét theo yêu cầu của Đ.

Lúc này, thấy cháu Nguyễn Tấn H, sinh năm 2007 đang chơi gần nhà P, Đ đưa cho cháu H 100.000đ và nhờ cháu H đến trước cổng trường, đưa tiền cho người đàn ông chạy xe ôm đang đứng đợi tại đó và lấy gói hàng từ người xe ôm đưa cho Đ; Cháu H cầm tiền và leo qua tường rào để vào sân trường, thì Đ cũng trèo qua tường rào vào sân trường và đứng đợi cháu H. Khi cháu H lấy gói ma túy từ ông T và đưa cho Đ, thì bị lực lượng công an bắt giữ. P bỏ trốn, ngày 21/6/2018, P đến Công an huyện Krông Bông đầu thú.

Bản kết luận giám định số: 575/GĐMT-PC54 ngày 25/6/2018, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 01 túi nylon được niêm phong, có các chữ ký ghi tên: Bùi Văn L, Trương Hữu N, Trương Ngọc T, Nguyễn Tấn H, Lê T, Nguyễn Thị D, Nguyễn Anh Đ, gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 4,3066gam.

Bản án hình sự sơ thẩm sơ thẩm số: 11/2018/HSST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông đã áp dụng: Điểm e khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 58 BLHS năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Anh Đ 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 58 BLHS năm 2015.

Xử phạt: Huỳnh Vĩnh H 03 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt Trần Hữu P 02 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, xử lý vật chứng, quyết định án phí và tuyên quyền kháng cáo.

Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 03/QĐ-VKS ngày 10/12/2018, của Viện trưởng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, đã kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm nêu trên với lý do: Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Nguyễn Anh Đ và Huỳnh Vĩnh H là quá nhẹ, chưa tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo; khối lượng ma túy mà các bị cáo mua bán trái phép là 4,3066gam Methamphetamine, gần mức tối đa của khung hình phạt tại khoản 1 Điều 251 BLHS, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử tăng mức hình phạt tù đối với các bị cáo Nguyễn Anh Đ và Huỳnh Vĩnh H.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Anh Đ khai nhận: Đầu tháng 6/2018, bị cáo bàn bạc với Huỳnh Vĩnh H và Trần Hữu P, mua ma túy đá về bán lại cho người khác một phần để kiếm lời, phần còn lại sử dụng. Trưa ngày 19/6/2018, bị cáo cùng với H và P, chuyển 3.000.000đ cho Trần Văn N cư trú tại thành phố H để mua ma túy đá; N hẹn với bị cáo ngày hôm sau, sẽ chuyển gói ma túy cho xe chở khách H chạy từ thành phố H đến huyện K. Do sợ công an phát hiện khi nhận gói ma túy, nên trưa ngày 20/6/2018, bị cáo và H bàn bạc với nhau điện thoại nhờ ông Lê T chạy xe ôm, đến nhà xe H nhận gói ma túy, mang đến trường tiểu học S giao cho bị cáo. Khi bị cáo đến nhà Trần Hữu P cạnh trường tiểu học S để nhận gói ma túy, thì thấy cháu bé trai đang chơi gần đó, bị cáo nhờ cháu bé này đến gặp ông Lê T, lấy gói ma túy giao cho bị cáo, thì công an bắt giữ.

Tại phiên tòa phúc thẩm Huỳnh Vĩnh H khai nhận: Trưa ngày 19/6/2018, bị cáo cùng với Đ và P, chuyển 3.000.000đ cho Trần Văn N cư trú tại thành phố H để mua ma túy đá về bán; Trưa ngày 20/6/2018, bị cáo và Đ nhờ ông Lê T chạy xe ôm, đến nhà xe Hòa Liêm nhận gói ma túy mua của N, mang đến trường tiểu học S giao cho bị cáo và Đ; Việc Đ nhờ cháu bé trai đến gặp ông Lê T lấy gói ma túy bị cáo không biết.

Tại phiên tòa đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk giữ nguyên Quyết định kháng nghị cho rằng: Bản án sơ thẩm tuyên xử bị cáo Nguyễn Anh Đ phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, theo điểm e khoản 2 Điều 251 và Huỳnh vĩnh H phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo khoản 1 Điều 251 BLHS năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Nguyễn Anh Đ, Huỳnh Vĩnh H là quá nhẹ, chưa tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm, chấp chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử tăng hình phạt tù đối với các bị cáo và xử phạt Nguyễn Anh Đ từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù; xử phạt Huỳnh Vĩnh H từ 04 năm đến 04 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Xét lời khai của các bị cáo Nguyễn Anh Đ và Huỳnh Vĩnh H tại phiên tòa phúc thẩm, là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của Trần Hữu P là người cùng thực hiện hành vi phạm tội với các bị cáo, phù hợp với vật chứng được thu giữ và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[2] Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Do động cơ vụ lợi, trưa ngày 19/6/2018, Nguyễn Anh Đ cùng với Huỳnh Vĩnh H và Trần Hữu P, mua 4,3066gam Methamphetamine của một người đàn ông tên là N tại thành phố H, để bán lại cho người khác; N chuyển gói ma túy cho Đ, H, P theo xe ô tô chở khách H, chạy từ thành phố H đến trị trấn M, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Do sợ cơ quan công an phát hiện khi nhận gói ma túy, trưa ngày 20/6/2018, Đ và H nhờ ông Lê T là người chạy xe ôm, đến nhà xe H nhận gói ma túy đựng trong hộp Modum Wifi, mang đến trường tiểu học S giao cho Đ và H. Thấy cháu Nguyễn Tấn H, sinh năm 2007 đang chơi gần trường học, Đ đã nhờ cháu H đến gặp ông T lấy gói ma túy mang đến cho Đ, thì bị cơ quan công an phát hiện bắt giữ.

Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử Nguyễn Anh Đ phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, với tình tiết định khung tăng nặng là sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội, theo điểm e khoản 2 Điều 251 và tuyên xử Huỳnh Vĩnh H phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét mức hình phạt, mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Nguyễn Anh Đ và Huỳnh Vĩnh H là quá nhẹ, chưa tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Bởi lẽ, khối lượng chất ma túy mà các bị cáo mua bán trái phép là 4,3066gam Methamphetamine, gần mức tối đa của khung hình phạt tại khoản 1 Điều 251 BLHS có mức hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù. Các bị cáo dùng thủ đoạn tinh vi, để thực hiện hành vi phạm tội được trót lọt. Để tránh sự phát hiện của cơ quan điều tra, trước khi nhận gói ma túy, do tên N chuyển từ thành phố H đến huyện K, theo xe chở khách H, trưa ngày 20/6/2018, các bị cáo đã đến gần nhà xe H, là nơi trả hàng hóa khách hàng gửi theo xe, quan sát, dò xét những người lạ mặt tại đây, nhằm tránh sự mai phục bắt giữ của cơ quan công an. Khi phát hiện có người lạ mặt tại nhà xe khách H, các bị cáo không trực tiếp nhận gói ma túy, mà bàn bạc với nhau thuê ông Lê T là người chạy xe ôm, đến nhà xe khách H nhận gói ma túy, được ngụy trang trong hộp đựng Modum Wifi, mang đến trường tiểu học S, là nơi cách xa nhà xe khách H giao cho các bị cáo. Trước khi nhận gói ma túy từ ông Lê T, các bị cáo còn yêu cầu Trần Hữu P đến trước cổng trường tiểu học S, dò xét có người lạ mặt nào bám theo xe mô tô của T không? nhằm tránh sự phát hiện của cơ quan điều tra, đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, được quy định tại điểm m khoản 1 Điều 52 BLHS nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng để xét xử các bị cáo là thiếu sót. Nguyễn Anh Đ còn lợi dụng cháu Nguyễn Tấn H là trẻ em, nhờ cháu H đến gặp ông T lấy gói ma túy giao cho Đ. Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy, cần chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, sửa bản án sơ thẩm, xử tăng hình phạt tù đối với các bị cáo, thì mới có tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo và trấn áp, răn đe phòng ngừa tội phạm ở địa phương. Tuy nhiên, xét thấy Nguyễn Anh Đ có ông nội, ông ngoại, bà ngoại là người có công trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến, đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần xem xét giảm nhẹ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, để thể hiện chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 2 Điều 357  Bộ Luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Anh Đ và Huỳnh Vĩnh H.

Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm m khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

Xử phạt: Nguyễn Anh Đ 09 (chín) năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ 20/6/2018.

Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm m khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015.

Xử phạt: Huỳnh Vĩnh H 05 (năm) năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ 20/6/2018.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Anh Đ và Huỳnh Vĩnh H, không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HS-PT ngày 24/01/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về