Bản án 36/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 36/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 30/10/2019, tại hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí xét xử công khai sơ thẩm vụ án thụ lý số 107 ngày 01/8/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41 ngày 07/10/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Nguyễn Thị Thu H – sinh năm 1992, thường trú tại thôn Vị Thủy, xã Thủy An, thị xã Đông Triều, Quảng Ninh, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt;

- Bị đơn: anh Nguyễn Văn T – sinh năm 1984, thường trú tại tổ 1, khu Hiệp An 2, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, Quảng Ninh, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Nguyễn Thị Thu H và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phương Nam, thành phố Uông Bí ngày 02/7/2018, do hai bên phát sinh mâu thuẫn nên chị H đã nộp đơn lên tòa án đề nghị giải quyết ly hôn với anh T.

Trong đơn ly hôn chị H trình bày: trong quá trình chung sống chị và anh T luôn xảy ra những cãi vã, nhiều lần anh T chửi chị, xúc phạm đến gia đình chị, nhiều lần đuổi chị ra khỏi nhà, thậm chí có lần còn đánh chị, nay thấy không còn tình cảm nên chị đề nghị ly hôn.

Về con chung: Có một con chung là Nguyễn Khánh Linh (sinh ngày 27/8/2018), chị H đề nghị được trực tiếp nuôi cháu Linh và không yêu cầu anh T cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Chị H đề nghị tự thỏa thuận giải quyết.

Trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt, chị H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện nói trên.

Tại phiên tòa, anh T trình bày: anh và chị H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phương Nam, thành phố Uông Bí ngày 02/7/2018. Nay chị H có đơn đề nghị ly hôn, quan điểm của anh là không đồng ý ly hôn vì theo anh mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức phải ly hôn, về con chung anh đề nghị được trực tiếp nuôi cháu Linh, về tài sản chung anh đề nghị tự thỏa thuận giải quyết.

Tại biên bản xác minh ngày 01/10/2019 tại khu Hiệp An 2, phường Phương Nam, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, tòa án được khu trưởng cung cấp thông tin như sau: Chị H và anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Phương Nam, thành phố Uông Bí ngày 02/7/2018, về chung sống một thời gian thì hai bên phát sinh mâu thuẫn do tính cách không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, chị H đã bỏ về nhà ngoại ở Đông Triều từ tháng 07/2019, nay chị có đơn ly hôn đề nghị tòa án xét xử theo pháp luật. Về con chung, tài sản chung đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử;

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

+ Có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn;

+ Đề nghị cho nguyên đơn ly hôn với bị đơn, giao con chung cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng, bị đơn không phải cấp dưỡng;

+ Về tài sản chung: hai bên tự thỏa thuận nên không đề cập. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Việc thụ lý và giải quyết vụ án dân sự về tranh chấp hôn nhân gia đình giữa các đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: chị H và anh T được tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn hợp pháp. Sau khi về chung sống một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính cách không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, ly thân từ 07/2018 đến nay.

Hi đồng xét xử xét thấy quan hệ hôn nhân chỉ thật sự đạt được khi xuất phát từ ý chí, nguyện vọng và sự tự nguyện của hai bên, trên cơ sở tôn trọng, quan tâm, chia sẻ, giúp đỡ nhau, cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng chị H và anh T đã không làm được điều này, anh T không đồng ý ly hôn nhưng từ khi hai bên ly thân đến nay đã gần bốn tháng anh T vẫn không có giải pháp gì để chị H thay đổi quan điểm ly hôn.

Tại phiên tòa này chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt, điều đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã thật sự sâu sắc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, việc chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp với thực tế và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình.

[2.2] Về con chung: Có một con chung là Nguyễn Khánh L (sinh ngày 27/8/2018).

Theo quy định khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình, con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp mẹ không đủ điều kiện trực tiếp nuôi hoặc hai bên có thỏa thuận khác. Chị H hiện có công việc ổn định theo hợp đồng lao động chị nộp cho Tòa án, như vậy việc giao cháu Linh cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và anh T không phải cấp dưỡng là có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[2.4] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 228, điểm c khoản 2 Điều 266, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân gia đình; điểm b khoản 1 Điều 3, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Thu H.

1. Về quan hệ hôn nhân: cho chị Nguyễn Thị Thu H ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: chị H trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Khánh L (sinh ngày 27/8/2018) kể từ ngày bản án này của Tòa án có hiệu lực pháp luật đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung, anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom chăm sóc giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Sau khi ly hôn hai bên đương sự vẫn có quyền thỏa thuận thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung hoặc trường hợp bên nào không còn đủ điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng con chung thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

3. Về án phí: Chị H phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu số 0000959 ngày 01/8/2019 của Chi Cục thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh. Chị H đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo của các đương sự: Chị H có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật. Anh T có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

800
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HNGĐ-ST ngày 30/10/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:36/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về