Bản án 36/2019/HNGĐ-ST ngày 10/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BỈNH DƯƠNG

BẢN ÁN 36/2019/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 10 tháng 5 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tình Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 110/2019/TLST- HNGĐ ngày 21/02/2019 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2019/QĐXXST-HN ngày 08/4/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 32/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26/4/2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1993;

Thường trú: Thôn 5, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông;

Tạm trú: 12a/13 khu phố T, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phan Thái H, sinh năm 1993.

Thường trú: Thôn 5, xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông;

Tạm trú: 12a/13 khu phố T, phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam A, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 18/02/2019 và lời khai trong quá trình tố tụng chị Nguyễn Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Sau một thời gian tìm hiểu, chị Nguyễn Thị L và anh Phan Thái H tiến tới hôn nhân và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, theo giấy chứng nhận kết hôn số 68/2013 quyển số 01/2012, ngày 06/12/2013, việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, được hai bên gia đình đồng ý và có tổ chức lễ cưới.

Sau khi chung sống và kết hôn vợ chồng sống thuê trọ tại phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương. Vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian đầu về sau phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cãi nhau, mặc dù chị L đã cố gắng cùng anh H hàn gắn để xây dựng gia đình hạnh phúc, nhưng mâu thuẫn vợ chồng không cải thiện được. Ngoài ra thì vào năm 2016 anh H có hành vi vi phạm pháp luật hiện nay anh H đang chấp hành hình phạt tù 13 năm tại Trại giam A, tỉnh Bình Dương. Nay chị Nguyễn Thị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với anh Phan Thái H.

Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quyền và nghĩa vụ tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 20/3/2019 bị đơn anh Phan Thái H trình bày:

Về hôn nhân: Anh Phan Thái H thống nhất với phần trình bày của chị Nguyễn Thị L về thời gian tìm hiểu, thời gian đăng ký kết hôn và quá trình chung sống, quan hệ vợ chồng. Vợ chồng sống hạnh phúc được thời gian đầu về phát sinh nhiều mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cãi nhau. Ngoài ra vào năm 2016 anh H có hành vi vi phạm pháp luật đã bị xử phạt, hiện nay anh H đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam A, tỉnh Bình Dương. Nay anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh H cũng đồng ý với yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị L.

Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quyền và nghĩa vụ tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và các đương sự chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn có yêu cầu xét xử vắng mặt căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đứng quy định. Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Về điều kiện thụ lý vụ án: Căn cứ vào đơn khởi kiện của chị Nguyễn Thị L thì đây là vụ án tranh chấp ly hôn quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn anh Phan Thái H có địa chỉ tạm trú tại phường A, thị xã D, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã D theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị L và bị đơn anh Phan Thái H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định của Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L và anh Phan Thái H là vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, theo giấy chứng nhận kết hôn số 68/2013 quyển số 01/2012, ngày 06/12/2013, là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải tin tưởng, thương yêu, quý trọng, chung thủy, và tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Xét thấy, quan hệ vợ chồng giữa chị L và anh H đã xảy ra nhiều mâu thuẫn dẫn đến vợ chồng sống không hạnh phúc, nguyên nhân vợ chồng không cùng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cãi nhau. Ngoài ra thì vào năm 2016 anh H có hành vi vi phạm pháp luật nên bị xử phạt và hiện đang chấp hành hình phạt tù tại Trại giam A, tỉnh Bình Dương. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh H được anh chị thừa nhận qua các lời trình bày trong quá trình tố tụng, điều này chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh H đã trầm trọng không thể khắc phục được. Vì vậy, chị Nguyễn Thị L yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định của Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên chấp nhận.

[4] Về con chung: Vợ chồng chưa có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu Tòa án án giải quyết.

[6] Từ những nhận định trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về tranh chấp ly hôn chị Nguyễn Thị L và anh Phan Thái H.

[7] Lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã D là phù hợp như những phân tích nêu trên.

[8] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị L chịu án phí ly hôn theo quy định tại Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2014 và Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị L được ly hôn với anh Phan Thái H.

2. Về con chung: Vợ chồng không có con chung.

3 Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị L phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0028086 ngày 21/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã D, tỉnh Bình Dương.

5. Nguyên đơn các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2019/HNGĐ-ST ngày 10/05/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:36/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về