Bản án 36/2018/HS-ST ngày 24/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 36/2018/HS-ST NGÀY 24/04/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 30/2018/TLST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 41/2018/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo:

Trần Thị S (H), sinh năm: 1968 tại Thừa Thiên Huế; Nơi cư trú: ấp S, xã S, thị xã L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần M (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1947; Chồng: Phạm Văn L, sinh năm: 1966; Có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 2002. Tiền án: có 05 tiền án - Ngày 23/12/2003, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đông Nai xử phạt 01 (một) năm tù về tội Trộm cắp tài sản, tại bản án số 110/HSST ngày 23/12/2003.

- Ngày 12/01/2006, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, tại bản án số 08/2006/HSST.

- Ngày 29/12/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, xử phạt 07 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tại bản án số 92/2009/HSST.

- Ngày 28/01/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xử phạt 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tại bản án số 07/2011/HSST.

- Ngày 28/03/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm, 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo bản án số 34/2014/HSST ngày 28/03/2014.

Tiền sự: Không;

Bị bắt tạm giam từ ngày 30/12/2017 đến nay (có mặt).

- Bị hại: 1. Anh Nguyễn Tấn L, Sn: 1975 (Vắng mặt).

2. Chị Phạm Thị L, Sn: 1974 (Có mặt).

Trú tại: Ấp S, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Phạm Thị Thu Th, Sn: 1989 (Có mặt).

2. Chị Phạm Văn L, Sn: 1966 (Vắng mặt).

Cùng trú tại: Ấp S, xã S, thị xã L, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị L, Sn: 1966 (Vắng mặt).

Trú tại: 25 Th, phường X, thị xã Lh, tỉnh Đồng Nai

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ ngày 30/12/2017, bị cáo Trần Thị S điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Vision, màu đen, biển số 60B2-385.58 đi từ thị xã Long Khánh về huyện Xuân Lộc để tìm cơ hội trộm cắp tài sản. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, khi S đi ngang qua cửa hàng mua bán nội thất “Tấn Lộc”, thuộc ấp S, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai, do anh vợ chồng anh Nguyễn Tấn L, chị Phạm Thị L làm chủ thì phát hiện thấy cửa hàng mở cửa nhưng không có người trông coi nên S dừng xe mô tô phía trước cửa hàng, rồi đi vào phòng ngủ của anh Lộc lấy trộm được số tiền là 9.660.000 của vợ chồng anh L, chị L để trong 01 bóp da nam màu nâu trên kệ tủ ti vi. Sau đó, S đến cửa hàng kinh doanh vàng “Ngọc Châu”, thuộc phường X, thị xã L của anh Lê Bảo Tuấn T mua 02 nhẫn vàng 24k (vàng 9999), loại 01 chỉ/1 nhẫn với số tiền 7.090.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Vision, màu đen, biển số 60B2-385.58, đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Phạm Thị Thanh Th.

- Số tiền 9.660.000 đồng (chín triệu sáu trăm sáu mươi nghìn đồng), đã trả lại cho bị hại là anh Nguyễn Tấn L.

- 02 (hai) nhẫn kim loại màu vàng, bên trong có ký hiệu “Ngọc Châu 9999”, đã trả lại cho bị cáo Trần Thị S.

Trách nhiệm dân sự:

- Bị hại anh Nguyễn Tấn L, chị Phạm Thị L đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm về dân sự.

Tại bản cáo trạng số: 43/CT-VKS-HS, ngày 07/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Trần Thị S về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Trần Thị S về tội Trộm cắp tài sản và đề nghị áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Thị S từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Trần Thị S khai nhận đã thực hiện hành vi như nội dung bản cáo trạng mô tả, thể hiện: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 30/12/2017, tại cửa hàng mua bán nội thất “Tấn Lộc”, thuộc ấp S, xã S, huyện X, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Trần Thị S đã lén lút trộm cắp được số tiền 9.660.000 của anh Nguyễn Tấn L, chị Phạm Thị L. Trước khi phạm tội bị cáo 05 tiền án về trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Như vậy, hành vi của bị cáo Trần Thị S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

[2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo; gia đình bị cáo tự nguyện nộp tiền để bồi thường thiệt hại, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ và xâm phạm an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo đã nhiều lần bị Tòa án xét xử, nhưng sau khi chấp hành xong hình phạt không lo tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục phạm tội mới. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt tù, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Đối với chị Phạm Thị Thanh Th là chủ sở hữu xe mô tô nhãn hiệu Vision, màu đen, biển số 60B2-385.58, bị cáo S sử dụng xe mô tô của chị Th làm phương tiện phạm tội nhưng chị Th không biết bị cáo sử dụng xe mô tô làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Xuân Lộc không đưa ra hình thức xử lý đối với chị Th là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Nguyễn Tấn L, chị Phạm Thị L đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì về dân sự nên không xét.

[7] Về vật chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý là đúng quy định của pháp luật.

[8] Đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa chỉ phù hợp một phần với nhận định của Hội đồng xét xử nên chỉ được chấp nhận một phần.

[9] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội và bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Thị S phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 138; điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Xử phạt bị cáo Trần Thị S 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/12/2017.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về Án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Thị S phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm

Bị cáo, chị L, chị Th được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2018/HS-ST ngày 24/04/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:36/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về