Bản án 36/2018/HNGĐ-ST ngày 10/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP. PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 36/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/07/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 10 tháng 7 năm 2018 tại phòng xử án Toà án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 49/2018/TLST-HNGĐ ngày 31 tháng 01 năm 2018 về việc tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2018/QĐXXST- HNGĐ ngày 31/5/2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phan Thị Q, sinh năm 1994 (có mặt)

Địa chỉ: Khu phố 6, phường V. H, thành phố P, Ninh Thuận.

Bị đơn: Ông Lê Thành C, sinh năm 1988 (vắng mặt)

Địa chỉ: Khu phố 5, phường M. B, thành phố P, Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn là bà Phan Thị Q trình bày: bà và ông Lê Thành C tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Văn Hải vào ngày 23/7/2012. Quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn vì ông C ham chơi, lười lao động, cuộc sống vợ chồng quá khó khăn nên ông thường kiếm chuyện chửi mắng, đánh đập, xúc phạm danh dự bà. Không thể chịu đựng được nên bà đã dẫn con về sống nhà cha mẹ ruột và đi làm thuê kiếm tiền nuôi con, còn ông C về sống nhà cha mẹ ruột của ông. Kể từ tháng 12/2013 cho đến nay vợ chồng đã sống ly thân và không còn quan tâm gì đến nhau. Nay tình cảm không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông C.

Về con chung: có 01 người con là Lê Tường Yến V, sinh ngày 17/11/2010 hiện đang ở cùng bà. Bà Q xin được nuôi con và không yêu cầu ông C phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu giải quyết.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:

- Sự vắng mặt của đương sự: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các Thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và 02 lần Thông báo hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông C vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

- Sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát: Quá trình thụ lý giải quyết việc thu thập chứng cứ không do Tòa án tiến hành nên theo quy định tại khoản 2 điều 21 của Bộ luật Tố tụng Dân sự không có Viện kiểm sát tham gia phiên tòa.

- Quan hệ pháp luật tranh chấp: Đây là vụ tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung”, bị đơn cư trú tại phường M. B, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận theo khoan 1 Điêu 28, khoản 1 điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thuôc thâm quyên giai quyêt cua Toa an Thành phố Phan rang- Tháp chàm.

Về nội dung:

[1] Quan hệ hôn nhân: giữa bà Q và ông C chung sống hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, không tôn trọng danh dự, nhân phẩm cho nhau. Theo cung cấp của Chính quyền địa phương nơi cư trú thì “ông C, bà Q đã không còn chung sống cùng nhau, bà Q về sống nhà cha mẹ ruột từ tháng 01/2013 cho đến nay, ông C thường tổ chức đá gà và ăn nhậu gây mất trật tự trong khu dân cư”. Xét mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng và hạnh phúc, tuy nhiên bà Q và ông C không sum họp và dung hòa được cuộc sống chung. Đồng thời, trong thời gian sống ly thân cả hai vẫn không hàn gắn được tình cảm, giữa ông C và bà Q đã không còn sự quan tâm, chia sẻ, gắn bó lẫn nhau và đều bỏ mặc hôn nhân. Hơn nữa, ông C biết về việc ly hôn nhưng cũng không gửi văn bản nêu ý kiến và không đến để được Tòa án hòa giải. Xét tình trạng hôn nhân giữa bà Q và ông C đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, cả hai đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Do đó yêu cầu được ly hôn của bà Q là có căn cứ phù hợp điều 56 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về con chung: bà Q có nguyện vọng được nuôi dưỡng 01 con chung chưa thành niên là Lê Tường Yến V, sinh ngày 17/11/2010 và không yêu cầu ông C phải cấp dưỡng. Xét con chung hiện đang do bà Q trực tiếp nuôi dưỡng, cháu có mong muốn được sống cùng mẹ và ông C cũng không tranh chấp nuôi con. Do đó, yêu cầu được nuôi con chung của bà Q có căn cứ phù hợp điều 68, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 điều 147 của BLTTDS năm 2015; điểm a khoản 5 điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về hôn nhân) không có giá ngạch.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: khoản 1 điều 56; điều 68; điều 81; điều 82; điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 điều 147, điểm b khoản 2 điều 227; khoản 3 điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là bà Phan Thị Q đối với bị đơn là ông Lê Thành C.

Về hôn nhân: bà Phan Thị Q được ly hôn với ông Lê Thành C.

Về con chung: bà Phan Thị Q có quyền và nghĩa vụ trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng 01 người con chung chưa thành niên là cháu Lê Tường Yến V, sinh ngày 17/11/2010. Ông Lê Thành C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Không ai được quyền cản trở ông C thực hiện quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung.

Về án phí: bà Phan Thị Q phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn), nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0015187 ngày 26/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự Thành phố Phan rang – Tháp chàm. Bà Q đã nộp đủ tiền án phí sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai có mặt nguyên đơn - quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (10/7/2018); vắng mặt bị đơn - quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2018/HNGĐ-ST ngày 10/07/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:36/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về