Bản án 36/2017/HSST ngày 20/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 36/2017/HSST NGÀY 20/07/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 33/2017/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Thế T (tên gọi khác: Nguyễn Thế A), sinh năm 1997; HKTT: Xóm 15, thôn X, xã B, huyện T, thành phố Hải Phòng; trình độ văn hóa: 8/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Nguyễn Thế Đ, sinh năm 1968 và bà Vũ Thị O, sinh năm 1970; có vợ là chị Phạm Thị L, sinh năm 1998 và có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2016 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh; có mặt.

Ngưi bào chữa cho bị cáo T: ông Trần Văn Hải – Luật sư Văn phòng luật sư Hải Khánh – Đoàn luật sư tỉnh Bắc Ninh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Nguyễn Thế T bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào hồi 16h 45’ ngày 28/12/2016, tại phòng 503 khách sạn G thuộc khu đô thị P, phường Đ, thị xã T, tỉnh Bắc Ninh. Công an thị xã Từ Sơn bắt quả tang Nguyễn Thế T, sinh năm 1997 tại xóm 15, thôn X, xã B, huyện T, thành phố Hải Phòng đang chuẩn bị bán trái phép ma túy. Vật chứng thu giữ gồm 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng; 01 điện thoại di động màu trắng nhãn hiệu Samsung gắn sim số thuê bao 01296457342; 01 áo khoác màu xanh đen đã cũ. Cơ quan điều tra đã niêm phong túi nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng theo quy định và gửi đi giám định. Khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo T, Cơ quan cảnh sát điều tra không thu giữ được gì.

Tại bản Kết luận giám định số 144/KLGĐ – PC54 ngày 28/12/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: Chất tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng có trọng lượng 196,2700gam; Loại ma túy: Chất Methamphetamine.

Với những tình tiết như trên, tại Cáo trạng số 48/CTr-VKS-P1 ngày 29/5/2017 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo Nguyễn Thế T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm e khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự;

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo T đều khai nhận: Khoảng 15h ngày 28/12/2016, khi đang đi chơi tại xóm 8, thôn H , xã T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang thì có T1 là bạn của T (T không biết họ tên và địa chỉ cụ thể của T1 ở đâu) gọi điện thoại bảo T mang ma túy tổng hợp từ huyện Y, tỉnh Bắc Giang xuống thị xã T, tỉnh Bắc Ninh và mang tiền về cho T1, T1 sẽ trả tiền công cho T là 3.000.000đ và gọi taxi đưa đón T đi, T đồng ý. T1 đưa cho T 01 áo khoác màu xanh đen và nói với T ma túy được để trong túi áo, T cầm áo khoác lên xe taxi đi, khi lên xe T kiểm tra thì thấy 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa ma túy dạng đá để ở túi ngực phía trong bên trái áo khoác. Sau đó, T1 nhắn tin cho T số điện thoại của một người tên là T2 ở thị xã T, tỉnh Bắc Ninh sẽ nhận ma túy.

Khoảng 16h cùng ngày, khi đến thị xã T, T gọi điện T2 ra đón. T2 đón và đưa T lên phòng 503, khách sạn G thuộc khu đô thị P, phường Đ, thị xã T. Tại đây T cho T2 xem ma túy, sau đó T2 ra ngoài nói là đi lấy tiền, khoảng 10 phút sau Công an thị xã Từ Sơn đến kiểm tra phòng 503. T đã giao nộp toàn bộ số ma túy cho Cơ quan công an và khai nhận to àn bộ hành vi phạm tội của mình. Việc mua bán giữa T1 và T2 cụ thể do hai người tự trao đổi, T chỉ mang ma túy đến giao cho T2 và mang tiền về. Chiếc điện thoại di động màu trắng nhãn hiệu Samsung, Công an thu giữ T đã sử dụng liên lạc với đối tượng T1 và T2.

Đối với Hà Văn K là lái xe taxi chở T. T và K không quen biết nhau. K không biết hành vi mua bán trái phép chất ma túy của T . K được một người lái xe taxi tên T3 giới thiệu đến chở T (K không nhớ rõ số điện thoại, họ, tên, địa chỉ và biển kiểm soát xe taxi của T3). Cơ quan điều tra không xem xét trách nhiệm hình sự của K về hành vi phạm tội của T.

Đối với đối tượng T1 là người đưa ma túy cho T đi bán và đối tượng T2 là người mua ma túy của T. Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng chưa có kết quả, khi nào có đủ chứng cứ sẽ đề nghị xử lý sau.

Đối với số điện thoại 0988832580 và số điện thoại 0965047328 theo T khai là của đối tượng T1 và T2. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được chủ thuê bao của các số điện thoại này.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội giữnguyên Cáo trạng truy tố. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”:

Áp dụng điểm e khoản 3 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế T từ 16 đến 17 năm tù. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: đề nghị tịch thu tiêu hủy số lượng ma túy còn lại sau giám định và 01 chiếc áo khoác màu xanh đen đã cũ; tịch thu sung công quỹ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng đã cũ kèm 01 sim.

Luật sư Trần Văn Hải bào chữa cho bị cáo T phát biểu ý kiến: đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì từ khi điều tra đến phiên tòa hôm nay bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bản thân bị cáo lần đầu phạm tội.

Bị cáo T nhất trí với lời bào chữa của Luật sư, không bổ sung và tranh luận gì thêm mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Thế T tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để kết luận: bị cáo Nguyễn Thế T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, với trọng lượng ma túy là 196,27 gam Methamphetamine. Tội được quy định tại điểm e khoản 3 Điều 194 Bộ luật hình sự như Cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý chất ma túy. Ma túy còn là nguồn gốc dẫn tới nhiều tệ nạn xã hội và tội phạm khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, góp phần gia tăng người nghiện hút ma túy trong xã hội và gia tăng nạn dịch HIV. Hành vi đó phải bị xử lý nghiêm bằng pháp luật hình sự, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới có tác dụng riêng và phòng ngừa chung. Bị cáo T thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy vì mục đích lợi nhuận nên cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền để sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, bản thân bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải đây là một tình tiết giảm nhẹ để xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Trong vụ án còn có đối tượng Hà Văn K là lái xe taxi chở T do anh K không biết việc T mua bán trái phép chất ma túy, T cũng không nói cho anh K biết nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự với anh K là phù hợp.

Đối với các đối tượng T2 và T1 như bị cáo T khai. Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng chưa có kết quả, khi nào có đủ chứng cứ sẽ đề nghị xử lý sau là phù hợp.

Về xử lý vật chứng vụ án: Cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định; tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác màu xanh đen đã cũ; đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng đã cũ kèm 01 sim, đây là điện thoại của T và là phương tiện T khai dùng để liên lạc với T1 và T2 để thực hiện tội phạm nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế T (tên gọi khác: Nguyễn Thế A) phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 33 Bộ luật hình sự; Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự; Pháp lệnh về lệ phí, án phí Toà án;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế T (tên gọi khác: Nguyễn Thế A) 16 (Mười sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/12/2016. Phạt bổ sung bị cáo 10.000.000đ sung công quỹ Nhà nước.

Quyết định tạm giam bị cáo T 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 01 (một) túi giấy niêm phong đựng mẫu vật hoàn lại sau giám định, mặt trước có ghi chữ “kính gửi: Cơ quan CSĐT-CATX Từ Sơn, Mẫu vật còn lại sau giám định kèm theo kết luận số 144/KLGĐ-PC54 ngày 28/12/2016 của PC54”.

Tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác màu xanh đen đã cũ.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu trắng đã cũ kèm theo 01 sim.

 (Theo như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 38/CTHA ngày 25/5/2017 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh).

Về án phí: Bị cáo T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thế T có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

390
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 36/2017/HSST ngày 20/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:36/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về