Bản án 360/2019/HS-PT ngày 27/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 360/2019/HS-PT NGÀY 27/08/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 27 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 273/2019/HSPT ngày 15 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Quảng Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 90/2019/HS-ST ngày 05/06/2019 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Qung Văn T, giới tính: Nam; sinh năm 1976 tại tỉnh Lâm Đồng; hộ khẩu thường trú: thôn T1, xã T2, huyện T3, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú : 190/3/2 Tổ 74, khu phố 03, phường T4, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Bảo vệ; trình độ văn hóa: 09/12; con ông Quảng Văn T5 (đã chết) và con bà Đỗ Thị T6; hoàn cảnh gia đình: bị cáo có vợ và 02 người con (con lớn sinh năm 2008, con nhỏ sinh năm 2010); tiền án: không; tiền sự: không. Bị cáo bị bắt và tạm giam ngày 27/8/2018 (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Tuyết Thùy D, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, làm việc tại Công ty Luật TNHH M Legal Counsel (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Quảng Văn T và Phan Văn K cùng là bảo vệ tại Chung cư B, đường B1, Phường B2, quận B2.

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 04/6/2018, Quảng Văn T, Nguyễn Văn D và Phan Văn S cùng nhậu tại nơi ở của anh S là Phòng y tế Lô A chung cư B. Về phía Phan Văn K đã nhậu ở nơi khác, đến khoảng 20 giờ 30 phút thì K tiếp tục đến nhậu chung với nhóm của T. Trong lúc ngồi nhậu chung thì ông K lại có gây gỗ với T, do đó chị Liêu Thị Thu H (chị H là vợ của anh S) đến can ngăn nên ông K đi về. Nhưng khoảng 10 phút sau, ông K quay trở lại, trên tay cầm 01 cây gỗ tròn dài khoảng 80cm đòi đánh T thì anh S can ngăn nên ông K đã ném cây gỗ xuống đất. Về phía Thành đi lại nói chuyện với ông K thì ông K dùng tay phải chỉ vào Thành rồi dùng tay phải này đấm vào ngực của Thành nên Thành dùng tay phải đấm 01 cái vào mặt ông K, ngay tức thì ông K dùng tay trái móc con dao trong túi quần bên trái chuyển sang tay phải nên T dùng tay phải đấm tiếp vào mặt ông K và dùng tay phải này gạt ngang mặt ông K làm ông K ngã ngửa ra phía sau đập đầu xuống đất rồi bất tỉnh. Thấy vậy, T cùng mọi người xung quanh gọi xe đưa ông K đi cấp cứu tại Bệnh viện 175, nhưng đến ngày 08/6/2018 ông K tử vong.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số: 552/KLGĐ-PY ngày 24/7/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Phạm Văn K chết do chấn thương sọ não.

Tại Bản kết luận giám định bổ sung đã kết luận: cơ chế hình thành dấu vết thương tích: các tổn thương ở vùng đầu do tiếp xúc với vật tày gây ra. Là tổn thương chấn thương sọ não theo cơ chế hỗn hợp (cơ chế tác động trực tiếp và đầu di động) gây ra. Vị trí tác động bởi vật tày mềm (tay) tại trán trái trên ngoài cung mày trái và vành tai phải. Vị trí bị tác động bởi vật tày cứng (nền đất) tại vùng da xương chũm phải (bên trong có vỡ xương). Nguyên nhân chết của Phạm Văn K do chấn thương sọ não do tổng hợp các tổn thương ở vùng đầu gây ra.

Sau khi sự việc xảy ra Quảng Văn T đã bồi thường chi phí mai táng cho gia đình nạn nhân số tiền 81.000.000 đồng, chị Dương Thị H1 là vợ ông K đã nhận đủ tiền và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 90/2019/HS-ST ngày 05-6-2019 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Quảng Văn T phạm tội “ Cố ý gây thương tích”;

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Quảng Văn T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/8/2018.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 10/6/2019 bị cáo Quảng Văn Thành có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Quảng Văn T khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản án sơ thẩm đã thể hiện, đồng thời giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: sau khi phân tích hành vi của bị cáo theo nội dung của bản án sơ thẩm, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo Quảng Văn T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không xuất trình thêm tình tiết gì mới, xét thấy mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là phù hợp nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

- Luật sư Nguyễn Tuyết Thuỳ D bào chữa cho bị cáo Quảng Văn T cho rằng phiên tòa sơ thẩm xét xử vắng mặt người làm chứng là ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo; kết quả giám định pháp y bổ sung không xác định rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của bị cáo và hậu quả chấn thương sọ não của bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho giám định lại để xác định rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của bị cáo và hậu quả đối với bị hại; trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn tiến hành xét xử thì xem xét chuyển tội danh đối với bị cáo T sang tội “Cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” vì bị hại là người đã cầm hung khí đến tấn công trước, bị cáo là người phòng vệ chính đáng nhưng đã vượt quá giới hạn phòng vệ. Tuy vậy, trường hợp Hội đồng xét xử không đồng ý chuyển tội danh khác cho bị cáo thì đề nghị xem xét đến các tình tiết để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là: một phần lỗi do bị hại, bị cáo đã tích cực đưa bị hại đi cấp cứu, bị cáo không mong muốn hậu quả xảy ra đối với bị hại, bị cáo đã bồi thường khắc phục một phần hậu quả, bản thân bị cáo có thái độ thật thà khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh hiện nay của bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, nuôi mẹ già và 02 con đang tuổi đi học.

Trong phần tranh luận, Đại diện Viện kiểm sát cho rằng: mặc dù người làm chứng vắng mặt trong phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm nhưng lời khai của người làm chứng đã có đầy đủ trong hồ sơ, phù hợp với các chứng khác có trong hồ sơ nên việc vắng mặt của những người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án; kết quả giám định pháp y đã xác định rõ cơ chế hình thành dấu vết thương tích và xác định rõ nguyên nhân chết nên việc yêu cầu giám định lại là không có cơ sở; về tội danh, mặc dù bị hại là người tấn công trước nhưng bị cáo không có thương tích gì và bị cáo có thể lựa chọn phương án khác thay vì bị cáo tấn công bị hại và bị cáo đã tấn công liên tiếp dẫn đến bị hại té xuống đất bất tỉnh và sau đó tử vong. Do vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung hình phạt “làm chết người”, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên phạt bị cáo mức án 07 năm tù là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên vẫn giữ nguyên quan điểm về việc giải quyết vụ án.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo Quảng Văn Thành xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Tại phiên tòa, Luật sư cho rằng phiên tòa sơ thẩm xét xử vắng mặt người làm chứng là ảnh hưởng đến quyền lợi của bị cáo; kết quả giám định pháp y bổ sung không xác định rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của bị cáo và hậu quả chấn thương sọ não của bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho giám định lại để xác định rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của bị cáo và hậu quả đối với bị hại. Xét thấy lời trình bày nêu trên của Luật sư là không có cơ sở vì lời khai của người làm chứng đã có đầy đủ, phù hợp với các chứng khác có trong hồ sơ nên việc vắng mặt người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án; kết quả giám định pháp y đã xác định rõ cơ chế hình thành dấu vết thương tích và xác định rõ nguyên nhân chết nên việc yêu cầu giám định lại là không có cơ sở. Ngoài ra, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi của bị cáo và hậu quả xảy ra không thuộc yêu cầu phải giám định mà việc đánh giá này thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.

[2] Về nội dung:

Quảng Văn T và Phan Văn K cùng là bảo vệ tại Chung cư B, đường B1, Phường B2, quận B3.

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 04/6/2018, Quảng Văn T, Nguyễn Văn D và Phan Văn S cùng nhậu tại nơi ở của anh S là Phòng y tế Lô A chung cư B. Về phía Phan Văn K đã nhậu ở nơi khác, đến khoảng 20 giờ 30 phút thì K tiếp tục đến nhậu chung với nhóm của T. Trong lúc ngồi nhậu chung thì ông K lại có gây gỗ với T, do đó chị Liêu Thị Thu H (chị H là vợ của anh S) đến can ngăn nên ông K đi về. Nhưng khoảng 10 phút sau, ông K quay trở lại, trên tay cầm 01 cây gỗ tròn dài khoảng 80cm đòi đánh T thì anh Sơn can ngăn nên ông K đã ném cây gỗ xuống đất. Về phía T đi lại nói chuyện với ông K thì ông K dùng tay phải chỉ vào T rồi dùng tay phải này đấm vào ngực của T nên T dùng tay phải đấm 01 cái vào mặt ông K, ngay tức thì ông K dùng tay trái móc con dao trong túi quần bên trái chuyển sang tay phải nên T dùng tay phải đấm tiếp vào mặt ông K và dùng tay phải này gạt ngang mặt ông K làm ông K ngã ngửa ra phía sau đập đầu xuống đất rồi bất tỉnh. Thấy vậy, T cùng mọi người xung quanh gọi xe đưa ông K đi cấp cứu tại Bệnh viện 175, nhưng đến ngày 08/6/2018 ông K tử vong.

Theo Bản kết luận giám định pháp y tử thi và Bản kết luận giám định bổ sung của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Phạm Văn K chết do chấn thương sọ não. Các tổn thương ở vùng đầu do tiếp xúc với vật tày gây ra, là tổn thương chấn thương sọ não theo cơ chế hỗn hợp (cơ chế tác động trực tiếp và đầu di động) gây ra. Vị trí tác động bởi vật tày mềm (tay) tại trán trái trên ngoài cung mày trái và vành tai phải. Vị trí bị tác động bởi vật tày cứng (nền đất) tại vùng da xương chũm phải (bên trong có vỡ xương). Nguyên nhân chết của Phạm Văn K do chấn thương sọ não do tổng hợp các tổn thương ở vùng đầu gây ra.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bị cáo Quảng Văn T phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại phiên toà phúc thẩm, Luật sư cho rằng hành vi của bị cáo không phạm tội “Cố ý gây thương tích” mà phạm tội “Cố ý gây thương tích do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” vì sự việc xảy ra do một phần lỗi của bị hại. Xét thấy lời trình bày này của luật sư là không có cơ sở vì: Mặc dù bị hại là người tấn công bị cáo trước trong không gian rộng rãi, có nhiều người can ngăn, bị cáo hoàn toàn có điều kiện chọn phương án khác ngoài phương án tấn công bị hại nhưng bị cáo lại chọn phương án tấn công và tấn công liên tục làm cho bị hại té ngã xuống đất rồi bất tỉnh và sau đó tử vong, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 4 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Xét kháng cáo:

Ngày 05/6/2019, Tòa án xét xử sơ thẩm, đến ngày 10/6/2019 bị cáo Quảng Văn T làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên hợp lệ.

Bị cáo Quảng Văn T đã có hành vi dùng tay tấn công liên tiếp vào mặt của bị hại làm bị hại té ngã rồi dẫn đến tử vong. Bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng mà bị cáo vẫn thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng của công dân được pháp luật bảo vệ nên cần có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo. Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến hành vi phạm tội, tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hoàn cảnh và nhân thân của bị cáo.

Trong vụ án này, bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là bị cáo thành khẩn khai báo; bị cáo có thái độ ăn năn hối cải; bị cáo cũng đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại; sự việc xảy ra cũng do một phần lỗi của bị hại và các tình tiết này thì Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng và tuyên phạt bị cáo mức án là 07 năm tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm, mặc dù bị cáo không xuất trình tình tiết gì mới để xem xét giảm nhẹ thêm cho bị cáo, nhưng xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như đã nêu trên, hoàn cảnh dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo là do lỗi của bị hại; khi bị hại bất tỉnh thì bị cáo đã tích cực đưa bị hại đi cấp cứu, chăm sóc tại bệnh viện; bản thân bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự và hiện nay bị cáo có hai con của bị cáo còn nhỏ, đang tuổi đi học nên mức án 07 năm tù mà cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là có phần hơi nghiêm khắc. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm cần áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhưng trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Quảng Văn T và sửa bản án sơ thẩm.

Xử phạt: Quảng Văn T 06 (sáu) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, thời hạn tù tính từ ngày 27/8/2018.

Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo không phải nộp.

c quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

368
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 360/2019/HS-PT ngày 27/08/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:360/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về