Bản án 359/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHƯỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 359/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 124/2019/TLST-HNGĐ, ngày 04 tháng 5 năm 2019, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1445/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 04 tháng 9 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 1669/2019/QĐST-HNGĐ, ngày 04 tháng 10 năm 2019 và thông báo chuyển thời gian xét xử số 1892/TB-TA, ngày 30 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trương Xuân P, sinh 1987 (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Lệ Q, sinh 1985 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn P, xã P , huyện T, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12 tháng 4 năm 2019, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn anh Trương Xuân P trình bày: Trước khi kết hôn, giữa anh và chị Nguyễn Thị Lệ Q có tìm hiểu được thời gian, rồi tự nguyện tiến tới hôn nhân, đăng ký kết hôn vào năm 2016 tại UBND xã P, huyện T, nhưng sau khi kết hôn vợ chồng sống không có hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn, do chị Q nhiều lần hỗn láo, xúc phạm gia đình anh, bản thân chị Q không lo làm ăn, mà suốt ngày tham gia chơi cờ bạc, không quan tâm gì đến chồng con, vì vậy vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Từ tháng 7/2019 đến nay vợ chồng không còn sống chung với nhau nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên anh yêu cầu Tòa cho anh được ly hôn với chị Q.

Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là Trương Anh T, sinh ngày 18/6/2017 hiện con đang ở với anh. Nay ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con, vì từ tháng 7/2019 chị Q bỏ nhà đi giao con lại cho anh nuôi dưỡng cho đến nay và từ khi anh nuôi con cho đến nay chị Q cũng chưa bao giờ về thăm con, hay điện thoại hỏi thăm gì về con.

Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng không anh tự thỏa thuận không yêu cầu tòa giải quyết.

Vắng mặt tại tòa hôm nay nhưng theo bản tự khai ngày 30/5/2019, bị đơn chị Nguyễn Thị Lệ Q trình bày: Chị thống nhất về thời gian, tìm hiểu chung sống, kết hôn vợ chồng chị, như anh P đã trình bày là đúng, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không hiểu nhau, đôi lúc có lời qua tiếng lại, nay anh P xin ly hôn với chị, chị không đồng ý, chị xin Tòa cho vợ chồng chị đoàn tụ.

Về quan hệ nuôi con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung tên Trương Anh T, sinh ngày 18/6/2017, hiện con đang ở với chị, nếu tòa cho vợ chồng chị ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung: Vợ chồng chị tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa giải quyết Tại phiên Toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phước phát biểu: Về thủ tục tố tụng Tòa án đã tiến hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện nguyên đơn cho anh Trương Xuân P được ly hôn với chị Nguyễn Thị Lệ Q và giao con chung Trương Anh T cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng, chị Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết của tòa án và thủ tục tố tụng:

Đây là vụ án Hôn nhân gia đình tranh chấp về ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo qui định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án này có bị đơn là chị Nguyễn Thị Lệ Q cư trú tại huyện T, tỉnh Bình Định; Vụ án không có yếu tố nước ngoài, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định theo qui định tại điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án đã triệu tập bị đơn chị Nguyễn Thị Lệ Q hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên Tòa, nhưng chị Q vắng mặt không có lý do nên căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị Q.

[2] Về nội dung vụ án: Anh Trương Xuân P và chị Nguyễn Thị Lệ Q tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện T, tỉnh Bình Định vào năm 2016, nên hôn nhân giữa anh P và chị Q là hợp Pháp. Anh P xin ly hôn với chị Q với lý do chị Q nhiều lần hỗn láo, xúc phạm gia đình anh, chị Q không lo làm ăn, mà suốt ngày tham gia chơi cờ bạc, không quan tâm gì đến chồng con. Hội đồng xét xử xét thấy là vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình, nhưng trong thời kỳ hôn nhân, chị Q không lo làm ăn thường xuyên chơi cờ bạc, mà còn hỗn láo xúc phạm gia đình anh P nhiều lần, hiện nay vợ chồng cũng đã sống ly thân, cả hai cũng không quan tâm gì đến nhau; Mặc khác trong quá trình hòa giải, xét xử vụ án này, chị Q đều vắng mặt, chứng tỏ chị Q không quan tâm đến việc xây dựng gia đình hạnh phúc. Vì vậy có cơ sở xác định, hôn nhân giữa anh P và chị Q, đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, áp dụng các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử cho anh P được ly hôn với chị Q.

Về con chung: Anh P, chị Q có 01 con chung tên là Trần Anh T, sinh ngày 18/6/2017 hiện con đang ở với anh P. Nay ly hôn anh P yêu cầu được tiếp tục nuôi con, tại bản tự khai ngày 30.5.2019 chị Q cũng có nguyện vọng nuôi con. Tuy nhiên trong quá trình Tòa hòa giải và xét xử vụ án này, chị Q đều vắng mặt và không có ý kiến gì về việc nuôi con, từ tháng 7/2019 chị Q đã bỏ nhà đi và giao con lại cho anh P chăm sóc nuôi dưỡng cho đến nay. Vì chị Q không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con, còn anh P bảo đảm việc chăm sóc nuôi dưỡng con phát triển toàn diện về mọi mặt. Vì vậy Hội đồng xét xử giao con cho anh P trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Anh P không yêu cầu chị Q cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung: Anh P, chị Q không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Anh P phải chịu tiền án phí ly hôn theo qui định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phước: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 28, 35, 39, 227 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 81,82,83 của Luật hôn nhân và gia đình và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Anh Trương Xuân P được ly hôn với chị Nguyễn Thị Lệ Q.

2.Về con chung: Giao con Trương Anh T, sinh ngày 18/6/2017 cho anh Trương Xuân P trực tiếp nuôi dưỡng, hiện con đang ở với anh P. Chị Nguyễn Thị Lệ Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc làm ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cũng như việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3.Về án phí ly hôn: Anh Trương Xuân P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) sung ngân sách nhà nước, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí, mà anh P đã nộp 300.000đồng theo biên lai thu tiền số 0002934, ngày 03-5-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

4. Anh Trương Xuân P có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (Ngày 21/11/2019). Chị Nguyễn Thị Lệ Q vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết hoặc tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án,quyết định được thi hành theo quy đinh tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6.7 và 9 luật thi hành án dân sự ,thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định điều 30 luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 359/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:359/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phước - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về