Bản án 359/2017/HSST ngày 23/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 359/2017/HSST NGÀY 23/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Mở phiên tòa công khai ngày 23-11-2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 356/2017/HSST, ngày 01-11-2017 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Triệu H A, sinh năm 1995

ĐKNKTT: Xóm , xã N H, huyện N T, tỉnh N Đ.

Nghề nghiệp: Tự do - Văn hóa: 9/12

Con ông: Triệu V B, sinh năm 1962

Con bà: Đặng T T, sinh năm 1965

Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba. Chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: Không

Bị cáo hiện đang bị tạm giam trong một vụ án khác tại Trại tạm giam Công tỉnh Nam Định kể từ ngày 09-7-2017.

2. Họ và tên: Triệu H T, sinh năm 1992

ĐKHKTT: Xóm , xã N H, huyện NT, tỉnh NĐ.

Nghề nghiệp: Tự do  - Văn hóa: 9/12

Con ông: Triệu V P, sinh năm 1965

Con bà: Vũ T C, sinh năm 1968

Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất.

Vợ: Đoàn T T, sinh năm 1995, có 02 con.

Tiền án: Ngày 15-3-2016 TAND tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm xử phạt 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam trong một vụ án khác tại Trại tạm giam Công tỉnh Nam Định kể từ ngày 09-7-2017.

* Người bị hại: anh T V Đ, sinh năm 1978 (chồng chị H)

Nơi cư trú: xóm , xã N V, thành phố N Đ, tỉnh N Đ

(các bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14h ngày 26-3-2017 Triệu H Achuẩn bị vam phá khóa rồi rủ Triệu H T đi trộm cắp tài sản. T đồng ý điều khiển xe máy BKS 30K5-9218 chở A đi lang thang lên phía thành phố Nam Định, khi đi qua khu vực ruộng Lộng Cáp, xóm 5, xã Nam Vân, thành phố Nam Định phát hiện chiếc xe máy Wave BKS 18B1-473.25 của chị Vũ T H dựng trên đường bê tông cạnh mương nước, không có ai trông coi. T đi xe tiến lại gần chiếc xe BKS 18B1-473.25 cách khoảng 10m thì T dừng lại cảnh giới còn A đi bộ đến dùng vam phá khóa phá ổ khóa điện của xe, khi thấy đèn Mo bật sáng, A nổ máy đi xe tẩu thoát hướng về thành phố Nam Định, T đi theo sau. Sau đó A và T mang xe bán cho người quen là Tít H được 4.000.000đ (bốn triệu đồng), A chia cho T 2.000.000đ (hai triệu đồng).

Sau khi bị mất xe chị H đã trình báo Cơ quan công an TP N Đ. Quá trình điều tra xác định: sau khi ăn tiêu hết số tiền trên, A và T tiếp tục rủ nhau trộm cắp tài sản ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định bị cơ quan cảnh sát điều tra CA huyện Nam Trực khởi tố, điều tra và ngày 09/7/2017 Công an huyện Nam Trực đã bắt tạm giam đối với A và T. Ngày 24-10-2017 Tòa án nhân dân huyện N T, tỉnh Nam Định đã tiến hành xét xử đối với bị cáo Triệu H A và Triệu H T.

Quá trình điều tra A và T đã khai nhận hành vi trộm cắp xe máy của chị Vũ T H vào ngày 26-3-2017 ở xã Nam Vân, TP Nam Định, tỉnh Nam Định như trên. Cơ quan cảnh sát điều tra CATP Nam Định phối hợp với cơ quan cảnh sát điều tra CA huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định tiến hành thực nghiệm điều tra xác định hành vi của A và T phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập được. Chiếc xe BKS 18B1-473.25 cơ quan điều tra hiện chưa thu hồi được.

Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Nam Định định giá qua hồ sơ xác định chiếc xe máy BKS 18B1-473.25 có trị giá 14.800.000đ (mười bốn triệu tám trăm nghìn đồng). Trong quá trình điều tra vụ án, gia đình Triệu H T đã bồi thường cho gia đình chị Vũ T H 5.000.000đ (năm triệu đồng), chị H đã nhận số tiền trên và yêu cầu được tiếp tục bồi thường theo quy định của pháp luật

Cáo trạng số: 368/QĐ-KSĐT ngày 01-11-2017, Viện kiểm sát (VKS) nhân dân thành phố Nam Định đã truy tố bị cáo Triệu H A và Triệu H T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng và đề nghị HĐXX.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 20 (bị cáo Triệu H T áp dụng thêm điểm g khoản 1 Điều 48, khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999)

Xử phạt bị cáo Triệu H A từ 15 đến 18 tháng tù. Xử phạt bị cáo Triệu H T từ 18 đến 21 tháng tù

Áp dụng Điều 42 BLHS buộc các bị cáo phải bồi thường cho anh Trần Văn Đ số tiền 9.800.000 đồng (chín triệu tám trăm nghìn đồng)

Các bị cáo nói lời sau cùng: các bị cáo xin HĐXX xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Quá trình tiến hành tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng đều thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các chứng cứ: Đơn trình báo và lời khai của người bị hại, biên bản định giá tài sản.

[3] Lời khai của những người làm chứng, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà cùng các tài liệu khác trong hồ sơ đã có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 14h ngày 26-3-2017 Triệu H A và Triệu H T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc xe máy BKS 18B1-473.25 trị giá 14.800.000đ (mười bốn triệu tám trăm nghìn đồng) của chị Vũ Thị H, tại khu vực xã Nam Vân, thành phố Nam Định.

Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt qui định tại khoản 1 Điều 138 BLHS.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố. Trong vụ án này các bị cáo cùng cố ý thực hiện hành vi phạm tội nên là đồng phạm, HĐXX sẽ xem xét áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi của các bị cáo gây ra.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại CQĐT cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, HĐXX áp dụng điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo, sau khi sự việc xảy ra gia đình bị cáo Triệu Hoàng T đã khắc phục một phần hậu quả cho người bị hại, HĐXX áp dụng khoản 2 Điều 46 BLHS giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Triệu H T đã có một tiền án chưa được xoá án tích lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm, HĐXX áp dụng điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, tình tiết  giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo và đề nghị của Viện kiểm sát. HĐXX quyết định áp dụng hình phạt tù có thời hạn nhằm trừng trị, đồng thời giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Ngày 24-11-2017 Tòa án nhân dân huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định đã xét xử Triệu H A và Triệu H T về tội: “trộm cắp tài sản” tuy nhiên bản án chưa có hiệu lực pháp luật vì vậy HĐXX không tổng hợp hình phạt đối với các bị cáo. Hết thời hạn kháng cáo kháng nghị các bị cáo sẽ bị tổng hợp hình phạt của cả hai bán án theo quy định của pháp luật.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại anh Trần Văn Đ đề nghị các bị cáo phải bồi thường số tiền 14.800.000 đồng, gia đình bị cáo Triệu Hoàng Trung đã khắc phục số tiền 5.000.000 đồng, số tiền còn lại 9.800.000 đồng HĐXX áp dụng Điều 42 BLHS buộc các bị cáo phải bồi thường cho anh Đ, theo phần mỗi bị cáo phải bồi thường 7.400.000 đồng, gia đình bị cáo T đã bồi thường 5.000.000 đồng, đối trừ nghĩa vụ bị cáo T còn phải bồi thường 2.400.000 đồng.

Đối với đối tượng đã tiêu thụ chiếc xe máy do các bị cáo trộm cắp mà có  cơ quan cảnh sát điều tra chưa xác định được tên tuổi địa chỉ và hành vi cụ thể nên tách ra tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với chiếc xe BKS 30K5-9218,cơ quan cảnh sát điều tra xác định là của Đoàn Thị T (vợ của T), chị T không biết T lấy xe của mình đi thực hiện hành vi phạm tội nên không đặt ra vấn đề xử lý đối với chiếc xe.

[6] Án phí HSST và án phí dân sự: các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 99 BLTTHS và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Triệu H A và Triệu H T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 20 (bị cáo Triệu H T áp dụng thêm điểm g khoản 1 Điều 48, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999)

Xử phạt bị cáo: Triệu H A 18 (mười tám) tháng tù. Xử phạt bị cáo: Triệu H T 18 (mười tám) tháng tù

Thời hạn tù của các bị cáo tính từ ngày Chánh án Tòa án nhân dân có thẩm quyền ra quyết định thi hành án và tổng hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật.

- Áp dụng Điều 42 BLHS buộc Triệu H A phải bồi thường cho anh Trần Văn Đ số tiền 7.400.000 đồng (bảy triệu bốn trăm nghìn đồng), bị cáo Triệu H T phải bồi thường cho anh Trần Văn Đ số tiền 2.400.000 đồng (hai triệu bốn trăm nghìn đồng)

2. Án phí:

Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo Triệu H A và bị cáo Triệu H T mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự.

3. Quyền kháng cáo:

Các bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án nếu người phải thi hành án không thi hành thì phải chịu lãi suất theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 359/2017/HSST ngày 23/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:359/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về