Bản án 358/2019/HS-ST ngày 02/11/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 358/2019/HS-ST NGÀY 02/11/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 02 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 365/2019/HS-ST ngày 16 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 373/2019/HSST-QĐ ngày 18 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lê Minh H, sinh năm 1993 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn T, xã Tr Gi, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Khu phố Đ T, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Lê Minh B, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1963; bị cáo có 05 chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 2000; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị M, sinh năm 1995, có 01 con ruột, sinh năm 2017; tiền án:

- Ngày 19/6/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã D A, tỉnh Bình Dương xử phạt 04 tháng tù về tội Đánh bạc, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 150/2018/HSST;

- Ngày 19/9/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã D A, tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng tù về tội Đánh bạc, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 256/2018/HSST. Tổng hợp hình phạt 04 tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 150/2018/HSST ngày 19/6/2018 của Tòa án nhân dân thị xã D A, tỉnh Bình Dương thành hình phạt chung của 01 bản án là 10 tháng tù, chấp hành xong hình phạt ngày 25/3/2019.

Tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 17/7/2019 đến ngày 26/7/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Hoàng Văn H, sinh năm 1977 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn T, xã Tr Gi, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Số 6/54 khu phố B Đ 4, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Đổ bê tông; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Hoàng Văn L, sinh năm 1943 và bà Vũ Thị H, sinh năm 1945; bị cáo có 09 anh chị em ruột, lớn nhất sinh năm 1966, nhỏ nhất sinh năm 1997; bị cáo có vợ tên Đinh Thị S, sinh năm 1977; có 05 con ruột, lớn nhất sinh năm 1998, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 19/9/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã D A, tỉnh Bình Dương xử phạt 30.000.000 đồng về tội Đánh bạc, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 256/2018/HSST, đóng tiền phạt ngày 05/8/2019; bị bắt tạm giữ từ ngày 17/7/2019 đến ngày 26/7/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

3. Đỗ Văn Th, sinh năm 1983 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn MM, xã Tr Gi, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Số 167 đường Ng X, phường L Th M, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Đổ bê tông; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Đỗ Văn C, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1956; bị cáo có 02 chị ruột, lớn sinh năm 1976, nhỏ sinh năm 1981; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị T, sinh năm 1986; có 03 con ruột, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 19/6/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã D A, tỉnh Bình Dương xử phạt 15.000.000 đồng về tội Đánh bạc, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 150/2018/HSST, đóng tiền phạt ngày 20/8/2019; bị bắt tạm giữ từ ngày 17/7/2019 đến ngày 26/7/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

4. Nguyễn Văn D, sinh năm 1989 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn M, xã Tr Gi, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Số 4D, khu phố Đ T, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1969 và bà Vũ Thị T, sinh năm 1971; bị cáo có 02 em ruột, lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 1996; bị cáo có vợ tên Lê Thị Th, sinh năm 1992; có 01 con ruột, sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 17/7/2019 đến ngày 23/7/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

5. Trần Xuân T, sinh năm 1983 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn 3A, xã Qu S, huyện Đ Gl, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở: Số 6/54, khu phố B Đ 4, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Thợ ép cọc; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Trần Xuân B, sinh năm 1957 và bà Trần Thị Nh, sinh năm 1960; bị cáo có 07 anh em ruột, lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh năm 2000; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Bích Ng, sinh năm 1988; có 03 con ruột, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 17/7/2019 đến ngày 23/7/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

6. Vũ Văn Ch, sinh năm 1985 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn MM, xã Tr Gi, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Số NM, đường số S, khu phố Th Nh 1, phường D A, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Vũ Văn Th, sinh năm 1945 và bà Trần Thị D, sinh năm 1944; bị cáo có 08 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm 1964, nhỏ nhất sinh năm 1981; bị cáo có vợ tên Trần Thị Th, sinh năm 1992; có 02 con ruột, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 17/7/2019 đến ngày 23/7/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

7. Vũ Văn C, sinh năm 1983 tại tỉnh Thanh Hóa; thường trú: Thôn T, xã Tr Gi, huyện N C, tỉnh Thanh Hóa; chỗ ở: Số 6/54, khu phố B Đ 4, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ học vấn: 4/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Vũ Văn Đ (đã chết) và bà Trần Thị T (đã chết); bị cáo có 03 chị ruột, lớn nhất sinh năm 1979, nhỏ nhất sinh năm 1982; bị cáo có vợ tên Hoàng Thị Ngh, sinh năm 1986; có 03 con ruột, lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 17/7/2019 đến ngày 23/7/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người chứng kiến: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1982; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 13 giờ 30 phút ngày 17/7/2019, Vũ Văn C, Trần Xuân T, Nguyễn Văn D, Đỗ Văn Th, Hoàng Văn H, Vũ Văn Ch tham gia đánh bạc thắng thua bằng tiền, dưới hình thức chơi bài cào 03 lá, còn Lê Minh H ngồi xem đánh bạc tại phòng trọ số 3A nhà trọ số 6/5A khu phố B Đ 4, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Tất cả tham gia đánh bạc mỗi ván đặt cược 50.000 đồng, mỗi người chơi được chia 03 lá bài, ai điểm cao nhất sẽ thắng, nếu có 01 người trở lên có cùng số điểm cao nhất bằng nhau thì những người còn lại đặt thêm 100.000 đồng. Trong lúc chơi, D đi vào nhà vệ sinh có nhờ H bốc bài đánh dùm 02 ván, D cho H 250.000 đồng rồi D tiếp tục tham gia đánh bạc còn H thì ngồi xem. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, lực lượng Công an phường A B tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ số 3A nhà trọ số 6/5A, khu phố B Đ 4, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương thì phát hiện C, T, D, Th, H, Ch và H đang đánh bạc thắng thua bằng tiền nên lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và thu giữ 01 bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng, tiền tang vật 4.800.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định được như sau:

- Nguyễn Văn D mang theo 14.600.000 đồng, D cho H mượn 2.000.000 đồng và sử dụng 1.600.000 đồng để đánh bạc. Quá trình chơi thua 150.000 đồng, D đã cho H 250.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 200.000 đồng và thu giữ trong người 12.000.000 đồng.

- Hoàng Văn H mang theo 450.000 đồng và mượn của D thêm 2.000.000 đồng để sử dụng đánh bạc. Quá trình chơi thua 1.250.000 đồng, khi bị bắt C an thu giữ trên chiếu bạc 1.200.000 đồng.

- Trần Xuân T mang theo 1.000.000 đồng và sử dụng số tiền trên vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thắng 1.650.000 đồng, khi bị bắt thu giữ trên chiếu bạc 1.650.000 đồng và trong người 1.000.000 đồng. - Mai Văn Đ mang theo 2.500.000 đồng và sử dụng số tiền trên vào việc đánh bạc. Quá trình chơi thắng 1.630.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 1.650.000 đồng và trong người 1.000.000 đồng.

- Vũ Văn Ch mang theo 19.000.000 đồng và sử dụng 1.000.00 đồng để đánh bạc. Quá trình chơi thua 250.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 750.000 đồng và trong người 18.000.000 đồng.

- Vũ Văn C mang theo 450.000 đồng và sử dụng số tiền trên để đánh bạc. Quá trình chơi thắng 50.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 400.000 đồng và trong người 100.000 đồng.

- Đỗ Văn Th mang theo 4.800.000 đồng và sử dụng 400.000 đồng để đánh bạc. Quá trình chơi thua 50.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ trên chiếu bạc 350.000 đồng và trong người 4.400.000 đồng.

- Lê Minh H không mang theo tiền và ngồi xem đánh bạc. Quá trình chơi H đánh dùm cho D 02 ván và được D cho 250.000 đồng, khi bị bắt Công an thu giữ của H 250.000 đồng trên chiếu bạc.

Tng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 6.900.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: 4.800.000 đồng và 01 (một) bộ bài tây 52 lá.

Đi với số tiền 18.000.000 đồng của Vũ Văn Ch, 11.000.000 đồng của Nguyễn Văn D, 4.400.000 đồng của Đỗ Văn Th không sử dụng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương đã trả lại số tiền trên cho Ch, D và Th.

Tại Bản cáo trạng số: 376/CT-VKS-DA ngày 14 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Lê Minh H, Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th, Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C phạm tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã nêu, đồng thời đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Lê Minh H từ 07 tháng đến 10 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; Điều 36; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th để xử phạt mỗi bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 04 tháng cải tạo không giam giữ và phạt bổ sung từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51; và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt các bị cáo Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C, mỗi bị cáo từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng là tang vật sử dụng vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

- Đối với số tiền 6.900.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, xử lý vật chứng và các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 17/7/2019, tại phòng trọ số 3A nhà trọ số 6/5A khu phố B Đ 4, phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương. Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th, Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C rủ nhau đánh bạc dưới hình thức đánh bài cào 03 lá thắng thua bằng tiền, mỗi ván đặt cược 50.000 đồng và mỗi người chơi được chia 03 lá bài, ai điểm cao nhất sẽ thắng, nếu có 01 người trở lên có cùng số điểm cao nhất bằng nhau thì những người còn lại đặt thêm 100.000 đồng đồng thời trong quá trình chơi bài D vào nhà vệ sinh thì có nhờ Lê Minh H bốc bài chơi dùm cho 02 ván và được D cho H 250.000 đồng. Tổng số tiền các bị cáo dùng đánh bạc là 6.900.000 đồng.

[3] Như vậy, hành vi của các bị cáo Lê Minh H, Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th, Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C đánh bạc dưới hình thức đánh bài cào 03 lá thắng thua bằng tiền, tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc 6.900.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 376/CT-VKS-DA ngày 14 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng, nhưng đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, xâm phạm trật tự công cộng, trật tự xã hội. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được đánh bạc dưới mọi hình thức ăn thua bằng tiền nhằm sát phạt lẫn nhau đều vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích tư lợi đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc, xem xét tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục cải tạo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Xét đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức. Các bị cáo Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th, Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C tham gia với vai trò là người trực tiếp đánh bạc. Bị cáo Lê Minh H có ngồi xem, bốc bài đánh dùm cho bị cáo D 02 ván và được Dương cho 250.000 đồng.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Lê Minh H, Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th có tiền án về tội Đánh bạc, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Các bị cáo Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C phạm tôi lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 [8] Về nhân thân: Các bị cáo Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C là người có nhân thân tốt thể hiện các bị cáo là người chưa có tiền án tiền sự. Các bị cáo Lê Minh H, Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th có tiền án về tội Đánh bạc, chưa được xóa án tích nhưng không lấy đó bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, các bị cáo hiện đang nuôi con nhỏ, là người lao động nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[9] Về hình phạt:

- Hình phạt chính:

+ Đối với bị cáo Lê Minh H có tiền án về tội Đánh bạc, đã được Tòa án xét xử 02 lần bằng hình phạt tù nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, chứng tỏ bị cáo là người xem thường pháp luật nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung đồng thời để đảm bảo cho việc thi hành án nên cần áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 131/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 24 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với Lê Minh H.

+ Đối với bị cáo Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th phạm tội ít nghiêm trọng, tuy các bị cáo có tiền án về tội Đánh bạc nhưng tiền án này các bị cáo chỉ áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền, các bị cáo đã chấp hành xong hình phạt đồng thời bị cáo Hương, Thắng có nơi cư trú rõ ràng, là lao động chính trong gia đình và hiện đang nuôi con nhỏ, hơn nữa trong thời gian tại ngoại bị cáo chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo tự cải tạo dưới sự giám sát, giáo dục của chính quyền địa phương nơi cư trú đồng thời các bị cáo là người lao động có thu nhập thấp, nên không áp dụng quy định khấu trừ một phần thu nhập khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với các bị cáo theo quy định tại khoản 3 Điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

+ Đối với các bị cáo Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C phạm tội ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nhân thân tốt, nhất thời phạm tội, có nơi cư trú rõ ràng, là người lao động đồng thời trong thời gian tại ngoại chấp hành tốt chính sách pháp luật tại địa phương nên Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo, không cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội cũng đủ sức răng đe, giáo dục các bị cáo.

Các bị cáo Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và các bị cáo Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C áp dụng hình phạt tiền nên cần hủy bỏ các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 132, 133, 134, 135, 136, 137/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 24 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, đối với bị cáo Lê Minh H áp dụng hình phạt tù cũng đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và các bị cáo Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Đối với các bị cáo Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th đã có tiền án về tội Đánh bạc, đã áp dụng hình phạt chính là phạt tiền nay các bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên cần áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo mới đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo trở thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[10] Về xử lý vật chứng:

- Xét 01 (một) bộ bài tây 52 lá đã qua sử dụng là tang vật sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Xét số tiền 6.900.000 đồng các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

[11] Đối với số tiền 18.000.000 đồng của Vũ Văn Ch, 11.000.000 đồng của Nguyễn Văn D, 4.400.000 đồng của Đỗ Văn Th không sử dụng vào việc đánh bạc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương đã trả lại số tiền trên cho Ch, D và Th là đúng quy định của pháp luật.

[12] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Lê Minh H, Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th, Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C phạm tội “Đánh bạc”.

1.1 Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Minh H 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/7/2019 đến ngày 26/7/2019.

Tiếp tục áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 131/2019/HSST- LCĐKNCT ngày 25 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, kể từ khi tuyên án đến khi Lê Minh H đi chấp hành án phạt tù.

1. 2 Áp dụng khoản 1, 3 Điều 321; Điều 36; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 01 (một) năm cải tạo không giam giữ, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/7/2019 đến ngày 26/7/2019. Bị cáo còn phải tiếp tục chấp hành 11 (mười một) tháng 03 (ba) ngày. Giao bị cáo về cho Ủy ban nhân dân phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương giám sát giáo dục. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân phường A B, thị xã D A, tỉnh Bình Dương được Bản án và Quyết định thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Hoàng Văn H 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Đỗ Văn Th 01 (một) năm cải tạo không giam giữ, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 17/7/2019 đến ngày 26/7/2019. Bị cáo còn phải tiếp tục chấp hành 11 (mười một) tháng 03 (ba) ngày. Giao bị cáo về cho Ủy ban nhân dân phường L Th M, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát giáo dục. Thời hạn cải tạo không giam giữ được tính kể từ ngày Ủy ban nhân dân phường Lo Th M, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh được Bản án và Quyết định thi hành án.

Phạt bổ sung bị cáo Đỗ Văn Th 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng.

1. 3 Áp dụng khoản 1 Điều 321; Điều 35; điểm i, s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng. - Xử phạt bị cáo Trần Xuân T 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn Ch 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng.

- Xử phạt bị cáo Vũ Văn C 25.000.000 (hai mươi lăm triệu) đồng.

Hy bỏ các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 132, 133, 134, 135, 136, 137/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 24 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 6.900.000 (sáu triệu chín trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tiền số 01293 ngày 14 tháng 10 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bộ bài tây 52 lá.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Lê Minh H, Hoàng Văn H, Đỗ Văn Th, Nguyễn Văn D, Trần Xuân T, Vũ Văn Ch và Vũ Văn C, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 358/2019/HS-ST ngày 02/11/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:358/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về