Bản án 358/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PHƯỚC, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 358/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 155/2019/TLST-HNGĐ, ngày 21 tháng 5 năm 2019, về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1356/2019/QĐXXST-HNGĐ, ngày 22 tháng 8 năm 2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 1498/QĐST-HNGĐ, ngày 11/9/2018 và thông báo chuyển thời gian xét xử số 1714/TB-TA, ngày 08.10.2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Ngọc S, sinh năm 1993 (Có mặt).

Địa chỉ: Thôn P, xã C, huyện P, tỉnh Bình Định.

2. Bị đơn: Anh Huỳnh Ngọc T, sinh năm 1986 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn T, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 08 tháng 5 năm 2019, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị Trần Thị Ngọc S trình bày:Trước khi kết hôn chị và anh Huỳnh Ngọc T có thời giam tìm hiểu khoảng 01 năm, rồi tự nguyện tiến tới hôn nhân, đăng ký kết hôn vào năm 2011 tại UBND xã P, huyện T, tỉnh Bình Định. Sau khi kết hôn vợ chồng sống không có hạnh phúc, phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh T không lo làm ăn, không quan tâm gì đến gia đình, mà suốt ngày tham gia đánh cờ bạc. Vì vậy năm 2013 chị làm đơn xin ly hôn với anh T, nhưng do anh T năn nỉ hứa sẽ thay đổi lo làm ăn chăm sóc vợ con, nên chị rút đơn lại, để vợ chồng chung sống với nhau. Nhưng sau đó anh T vẫn chứng nào tật ấy, nên từ cuối năm 2013 cho đến nay, chị đã bỏ đi về phía gia đình chị không còn sống chung với anh T nữa. Trong thời gian sống ly thân, anh T cũng không quan tâm gì đến chị. Nay xét thấy tình cảm không còn, nên chị yêu cầu được ly với anh T.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung tên Huỳnh Thị Ngọc T, sinh ngày 05.3.2012, hiện con đang ở với chị. Nay ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa giải quyết, hiện nay vợ chồng chị không nợ ai và không ai nợ gì vợ chồng chị.

Đối với bị đơn anh Huỳnh Ngọc T: Tại giai đoạn chuẩn bị xét xử, anh T không đến Tòa và cũng không nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên Toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phước phát biểu: Về thủ tục tố tụng Tòa án đã tiến hành đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho chị Trần Thị Ngọc S được ly hôn với anh Huỳnh Ngọc T và giao con Huỳnh Thị Ngọc T cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết của tòa án và thủ tục tố tụng:

Đây là vụ án Hôn nhân gia đình tranh chấp về ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo qui định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Vụ án này có bị đơn là anh Huỳnh Ngọc T đang cư trú tại huyện T, tỉnh Bình Định; Vụ án không có yếu tố nước ngoài, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định theo qui định tại điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án đã triệu tập bị đơn anh Huỳnh Ngọc T hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên Tòa, nhưng anh T vắng mặt không có lý do nên căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về nội dung vụ án: Chị Trần Thị Ngọc S và anh Huỳnh Ngọc T tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện T, tỉnh Bình Định vào năm 2011, nên hôn nhân giữa chị S và anh T là hợp pháp. Chị S xin ly hôn với anh T, với lý do anh T không lo làm ăn, suốt ngày ăn nhậu, không quan tâm đến gia đình, cho nên năm 2013 chị làm đơn xin ly hôn với anh T, nhưng do ăn T năn nỉ hứa sẽ thay đổi lo làm ăn chăm sóc vợ con, vì vậy chị rút đơn lại, để vợ chồng chung sống với nhau. Nhưng sau đó anh T vẫn chứng nào tật ấy, nên từ cuối năm 2013 đến nay, chị S và anh T không còn chung sống với nhau nữa. Hội đồng xét xử xét thấy là vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình, nhưng trong thời kỳ hôn nhân, anh T không lo làm ăn, thường xuyên tham gia đánh cờ bạc, sống không có trách nhiệm với gia đình. Trong quá trình tòa hòa giải, xét xử vụ án này, anh T đều vắng mặt và cũng không có ý kiến gì về việc ly hôn, chứng tỏ anh T không quan tâm đến việc xây dựng gia đình hạnh phúc. Vì vậy có cơ sở xác định, hôn nhân giữa chị S và anh T, đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, áp dụng các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử cho chị S được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị S và anh T có 01 con chung tên Huỳnh Thị Ngọc T, sinh ngày 05.3.2012, hiện con đang ở với chị S, nay ly hôn chị S yêu cầu được trực tiếp nuôi con. Hội đồng xét xử thấy rằng từ khi vợ chồng chị S, anh T sống ly thân từ năm 2013 đến nay, cháu T do chị S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, anh T không có ý kiến về việc nuôi con, còn nguyện vọng cháu T muốn ở với mẹ, vì vậy Hội đồng xét xử giao cháu T cho chị S trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Chị S không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung: Chị S không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị S phải chịu tiền án phí ly hôn theo qui định tại khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Xét ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tuy Phước: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 28, 35, 39, 227 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 58, 81,82,83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chị Trần Thị Ngọc S được ly hôn với anh Huỳnh Ngọc T.

2. Về con chung: Giao con Huỳnh Thị Ngọc T, sinh ngày 05.3.2012 cho chị Trần Thị Ngọc S trực tiếp nuôi dưỡng, hiện con đang ở với chị S. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc làm ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, cũng như việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí ly hôn: Chị Trần Thị Ngọc S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) sung ngân sách nhà nước, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí, mà chị S đã nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền số 0002976, ngày 21-5-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.

4. Chị Trần Thị Ngọc S có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (Ngày 21/11/2019). Anh Huỳnh Ngọc T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được niêm yết hoặc tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án,quyết định được thi hành theo quy đinh tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự,người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án,quyền yêu cầu thi hành án,tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6.7 và 9 luật thi hành án dân sự ,thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 358/2019/HNGĐ-ST ngày 21/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:358/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phước - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về