Bản án 358/2018/HS-PT ngày 14/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 358/2018/HS-PT NGÀY 14/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 11 năm 2018, tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đắk Lắk, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử lưu động vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 338/2018/HSPT ngày 12/10/2018, đối với bị cáo Phạm Thị N, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do có kháng nghị của Viện trưởng kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 221/2018/HS-ST ngày 05/9/2018 của Tòa án nhân dân thành thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo bị kháng nghị:

Họ và tên: Phạm Thị N, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1990, tại tỉnh Đắk Lắk;

Nơi cư trú: Đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Mã Văn T và bà Phạm Thị Kim A; có chồng là Phạm Chí T và 03 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có việc làm ổn định và cần tiền tiêu xài cá nhân nên Phạm Thị N nảy sinh ý định mua ma túy về bán lại cho người khác kiếm lời. Giữa tháng 10/2017, N nhờ đối tượng tên L (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mua ma túy rồi mang  về phòng trọ số 3 tại Liên gia A, tổ dân phố B, phường L, thành phố B do chị Trần Thị T (địa chỉ đường Y, phường L, thành phố B) làm chủ, chia nhỏ, đem bán. Trong thời gian từ giữa tháng 10/2017 đến ngày 14/11/2017, N đã 05 lần nhờ L mua ma túy, mỗi lần N nhờ L mua khoảng từ 700.000 đồng đến 800.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, N thường chia nhỏ thành 07 đến 08 gói và bán mỗi gói với giá 200.000 đồng đến 300.000 đồng. Với phương thức và thủ đoạn như trên, ngày 14/11/2017 N đi đến quán chơi game bắn cá (không rõ địa điểm) trên đường B, thành phố B gặp L nhờ mua ma túy với số tiền là 800.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, N mang về phòng trọ chia thành nhiều gói nhỏ. Khoảng 14h45’ ngày 15/11/2017, khi N đang ở tại phòng trọ số 3 tại địa chỉ: Liên gia A, tổ dân phố B, phường L, thành phố B thì Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy (PC47) Công an tỉnh Đắk Lắk tiến hành kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và thu giữ: 01 gói nylon không màu hình chữ nhật, kích thước khoảng 5cm x 10cm, bên trong có 14 gói nylon không màu hình chữ nhật. Trong đó, có 01 gói nylon kích thước khoảng 02cm x 03cm và 13 gói nylon kích thước 0,5cm x 03cm, bên trong đều chứa chất rắn dạng tinh thể, N khai là ma túy đá đã niêm phong theo quy định. Đến 17 giờ cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Lắk tiến hành khám xét khẩn cấp phòng trọ số 3 của Phạm Thị N và thu giữ: 01 gói nylon không màu có kích thước 03cm x 06cm, bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể, N khai là ma túy đá đã niêm phong theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 752/GĐMT-PC54 ngày 20/11/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận:

- 14 gói nylon không màu hình chữ nhật. Trong đó 01 gói nylon kích thước khoảng 02cm x 03cm và 13 gói nylon kích thước 0,5cm x 03cm, bên trong đều chứa chất rắn dạng tinh thể thu giữ của Phạm Thị N được niêm phong gửi giám định là ma túy, chất ma túy là Methamphetamine, khối lượng 2,3117 gam;

- 01 gói nylon không màu có kích thước 03cm x 06cm chứa chất rắn dạng tinh thể thu giữ của Phạm Thị N được niêm phong gửi giám định là ma túy, chất ma túy là Methemphetamine, khối lượng 1,1554 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu được của Phạm Thị N là 3,4671 gam.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 221/2018/HSST ngày 05/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Thị N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị N 05 (năm) năm tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo của bị cáo.

Ngày 03/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk ra Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 14/QĐ-VKS-P7, kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm số 221/2018/HSST ngày 05/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về mức hình phạt đối với bị cáo Phạm Thị N, với nội dung: Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo N là quá cao, đề nghị cấp phúc thẩm giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk vẫn giữ nguyên quyết định kháng nghị và đã phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phạm Thị N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội. Tuy nhiên mức hình phạt 05 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là quá nghiêm khắc so với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo; bản thân bị cáo N có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 là thiếu sót. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk, sửa Bản án sơ thẩm số 221/2018/HSST ngày 05/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo Phạm Thị N từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phạm Thị N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Bị cáo không tranh luận gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Phạm Thị N tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Vào khoảng 14 giờ 45 phút ngày 15/11/2017, tại phòng trọ số 3, thuộc liên gia A, tổ dân phố B, phường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, Phạm Thị N đã có hành vi tàng trữ 3,4671 gam ma túy loại Methamphetamine với mục đích để bán cho các con nghiện kiếm tiền tiêu xài, thì bị Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy PC47 Công an tỉnh Đắk Lắk phát hiện, bắt quả tang. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Phạm Thị N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 là đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk: Mức hình phạt 05 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo Phạm Thị N là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Bản thân bị cáo là người có nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, bị cáo đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 là thiếu sót. Do đó, cần chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo cho phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[3] Về án phí: Bị cáo không có kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 [1] Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 14/QĐ-VKS-P7 ngày 03 tháng 10 năm 2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk – Sửa Bản án sơ thẩm số: 221/2018/HSST ngày 05/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

 [2] Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị N 04 (bốn) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt thi hành án.

 [3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phạm Thị N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

 [4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 358/2018/HS-PT ngày 14/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:358/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về