Bản án 356/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 356/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án Nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân Gia đình thụ lý số 208/2020/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 164/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 134/2020/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Võ Thị T, sinh năm 1989 (Có Đơn xin xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ A, ấp V, xã V, huyện C, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông Trần Thanh V, sinh năm 1983 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ A, ấp V, xã V, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai cùng ngày 08/5/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn - Bà Võ Thị T trình bày:

- Về hôn nhân: Bà và ông Trần Thanh V kết hôn vào năm 2006, hôn nhân do quen biết, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện C, tỉnh An Giang. Vợ chồng chung sống hạnh phúc khoảng 9 năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng trong cuộc sống, ông V có mối quan hệ bên ngoài, không quan tâm gia đình, bà đã nhiều lần góp ý nhưng ông V không thay đổi. Năm 2018 ông V bỏ nhà đi, vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Nay nhận thấy không còn tình cảm với ông V, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu ly hôn với ông Trần Thanh V.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Trần Thị Thanh N, sinh ngày 04/10/2007 và Trần Thị Mai A, sinh ngày 24/10/2012. Hiện bà đang nuôi 02 con. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn – Ông Trần Thanh V: Đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông không đến Tòa án và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà T.

Theo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án:

- Các tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp gồm: Giấy chứng nhận kết hôn số 14/2015 Quyển số 01/2014 ngày 11-02-2015 (Bản chính); Trích lục khai sinh của cháu Trần Thị Thanh N, sinh ngày 04-10-2007 (bản sao); Trích lục khai sinh của cháu Trần Thị Mai A, sinh ngày 24-10-2012 (bản sao); CMND của bà Võ Thị T (Bản phôtô); Sổ hộ khẩu gia đình của bà Võ Thị T do bà Võ Thị T làm chủ hộ (Bản phôtô); Tờ tự khai của bà Võ Thị T ngày 08-5-2020; Hóa đơn bưu điện gửi hồ sơ khởi kiện cho ông Trần Thanh V ngày 08-5-2020; Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0006979 ngày 11-6-2020 của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang (300.000đ).

- Bị đơn: không cung cấp tài liệu, chứng cứ.

- Các tài liệu, chứng cứ do Tòa án tiến hành thu thập: Biên bản không lấy được lời khai của ông Trần Thanh V ngày 13/7/2020 và 23/7/2020; 02 Biên bản ghi ý kiến của cháu Ng và cháu A; Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 23/7/2020.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn: Vắng mặt và có Đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân huyện C phát biểu ý kiến:

Việc chấp hành pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa t khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã thực hiện đúng trình tự tố tụng, nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Về hôn nhân: Bà T được ly hôn với ông V; Về con chung: Bà T được tiếp tục nuôi 02 con chung là Trần Thị Thanh N, sinh ngày 04/10/2007 và Trần Thị Mai A, sinh ngày 24/10/2012, ông V không phải cấp dưỡng nuôi con do bà T không yêu cầu; Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Bà T yêu cầu tự thỏa thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không đặt ra xem xét. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà T phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

1.1 Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Võ Thị T có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Trần Thanh V do vậy xác định đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

1.2 Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Ông Trần Thanh V có nơi cư trú tại ấp V, xã V, huyện C, tỉnh An Giang. Do đó, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang.

1.3 Về sự có mặt của các đương sự: Nguyên đơn - Bà T vắng mặt tại phiên toà, tuy nhiên bà đã có Đơn xin xét xử vắng mặt ngày 07/9/2020 phù hợp theo quy định nên được chấp nhận; Bị đơn – Ông V đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như: Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo về phiên đối chất, Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông V vắng mặt tại phiên toà đến lần thứ hai mà không có lý do. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà T và ông V.

[2] Về nội dung tranh chấp:

2.1 Về hôn nhân: Bà T và ông V có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện C, tỉnh An Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình, hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ khi xảy ra tranh chấp.

Quá trình chung sống giữa bà T và ông V xảy ra mâu thuẫn không thể khắc phục, theo bà T nguyên nhân là do bất đồng trong cuộc sống, ông V có mối quan hệ bên ngoài, không quan tâm gia đình, bà đã nhiều lần góp ý nhưng ông V không thay đổi. Giữa bà và ông V đã sống ly thân t năm 2018 cho đến nay. Nay bà yêu cầu ly hôn với ông V.

Theo Biên xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông V ngày 23/7/2020 (Bút lục 42), bà Trần Thị S là mẹ ruột của ông V trình bày: Theo bà biết mâu thuẫn giữa vợ chồng bà T và ông V là do ông V là tài xế xe, chạy xe thường xuyên vắng nhà, bà T không đồng ý việc ông V thường xuyên đi 3 đến 4 tháng mới về t đó dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn và không hạnh phúc. Giữa vợ chồng bà T và ông V có khả năng đoàn tụ hay không bà không biết, trước đây vào năm 2018 ông V đã t ng gửi Đơn ly hôn với bà T đến Tòa án nhưng vợ chồng sau đó đoàn tụ.

T những nội dung nêu trên, xét thấy cuộc hôn nhân hiện nay giữa bà T và ông V lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc duy trì quan hệ hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai vì thực tế vợ chồng đã sống ly thân t năm 2018 đến nay và trong thời gian ly thân cả hai không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T, bà T được ly hôn với ông V.

2.2 Về con chung: Giữa bà T và ông V có 02 con chung tên Trần Thị Thanh N, sinh ngày 04/10/2007 và Trần Thị Mai A, sinh ngày 24/10/2012. Hiện sống với bà T. Sau khi ly hôn bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con. Bên cạnh, tại các Biên bản ghi ý kiến của con chung ngày 23/7/2020 (BL 40-41), cháu Ng và cháu A đều có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ là bà T sau khi cha mẹ ly hôn. Do đó, để ổn định cuộc sống của con chung hội đồng xét xử quyết định giao các con chung là cháu Ng và cháu A cho bà T được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Bà T phải tạo điều kiện cho ông V trong việc tới lui thăm nom chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Do bà T không yêu cầu nên ông V không phải cấp dưỡng nuôi con. Về quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn Nhân và Gia đình.

2.3 Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Bà T yêu cầu tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm:

Bà T là nguyên đơn phải chịu án phí Hôn nhân Gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

[4] Quyền kháng cáo: Bà T và ông V có quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự:

- Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014:

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

1. Về hôn nhân: Bà Võ Thị T được ly hôn với ông Trần Thanh V.

Giấy chứng nhận kết hôn số 14/2015 Quyển số 01/2014 ngày 11 tháng 02 năm 2015 của Ủy ban nhân dân xã V, huyện C, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

Giao 02 con chung là Trần Thị Thanh N, sinh ngày 04/10/2007 và Trần Thị Mai A, sinh ngày 24/10/2012 cho bà Võ Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

Bà T phải tạo điều kiện cho ông V trong việc tới lui thăm nom chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Do bà T không yêu cầu nên ông V không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn Nhân và Gia đình.

3. Về án phí sơ thẩm: Bà Võ Thị T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân Gia đình sơ thẩm, được khấu tr vào 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006979 ngày 11/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

4. Quyền kháng cáo: Bà Võ Thị T và ông Trần Thanh V có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể t ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 356/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:356/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về