Bản án 356/2019/HS-PT ngày 12/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 356/2019/HS-PT NGÀY 12/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 351/2019/TLPT-HS ngày 17 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh N về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 24/2019/HS-ST ngày 12/08/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.

Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Thị Thanh N sinh ngày 06/6/1989 tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam; nơi cư trú: tỉnh Quảng Nam; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C (đã chết) và bà Phan Thị L sinh năm 1957; có chồng nhưng đã li hôn, có 02 con (con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2018); tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ từ ngày 01/12/2018 đến ngày 07/12/2018 được áp dụng biện pháp bảo lĩnh; tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thanh N: Luật sư Vũ Minh T, Văn phòng Luật sư V thuộc Đoàn luật sư tỉnh Quảng Nam bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thanh N (Vắng mặt).

Ngoài ra, vụ án còn có 02 bị cáo (Trần Thị T, Nguyễn Ngọc S) và 11 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 11 giờ 30 phút ngày 01/12/2018, tại đoạn đường thuộc thôn T, xã S, huyện D, tỉnh Quảng Nam, Tổ công tác Công an huyện D phát hiện bắt quả tang Nguyễn Thị Thanh N đang điều khiển xe mô tô hiệu Janus mang biển số 92H1-494.34 vận chuyển 100 viên dạng nén nghi là ma túy tổng hợp dạng thuốc lắc (qua thử nhanh là MDMA, khối lượng 40,2 gam) và 01 túi ni lông màu trắng viền đỏ có chứa nhiều chất bột màu trắng nghi là ma túy tổng hợp dạng khay (qua thử nhanh là Ketamine, khối lượng 09 gam). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Nguyễn Thị Thanh N về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy và thu giữ vật chứng, 02 điện thoại di động bên trong gắn các sim có số 0935.689.571, 0935.297.761, 0932.401.282 của N. Nguyễn Thị Thanh N khai số ma túy bị bắt quả tang do N mua của một người đàn ông tên U ở Thành phố Hồ Chí Minh (không rõ lai lịch) với số tiền 35.000.000 đồng đem về bán lại cho Trần Thị T (sinh năm 1992; trú tại: Quảng Nam - là bị cáo trong cùng vụ án) để kiếm lãi.

Ngoài ra, Nguyễn Thị Thanh N còn khai nhận:

- Từ tháng 6/2018 đến tháng 9/2018, N mua ma túy của người thanh niên tên S ở thị trấn N, huyện D khoảng từ 05 đến 07 lần, mỗi lần từ 03-07 viên thuốc lắc với giá 350.000 đồng/01 viên và 01 chỉ khay với giá 2.000.000 đồng/01 chỉ tại khu vực quán Karaoke L thị trấn N đem về bán lại cho những người nghiện ma túy không rõ lai lịch để kiếm lãi khoảng 1.500.000 đồng.

- Vào tháng 9/2018, N còn mua của U 50 viên ma túy thuốc lắc và 01 hộp ma túy dạng khay với giá 23.750.000 đồng và nhờ người có tên B bán giúp rồi trả tiền công cho B là 50.000 đồng/01 viên thuốc lắc và 200.000 đồng/01 chỉ ma túy khay. N bán ma túy cho rất nhiều người không rõ lai lịch, chỉ nhớ vào khoảng giữa tháng 11/2018, N gọi điện thoại cho B đem ma túy đến quán Karaoke Q ở thị trấn N, D để bán cho những người nghiện ma túy sau đây:

(1) Lê Chỉ H (sinh năm 1997; trú tại: Xã T, huyện D) 04 viên thuốc lắc và 01 gói ma túy dạng khay với giá 3.600.000 đồng;

(2) Lê Huỳnh P (sinh năm 1997; trú tại: Xã T, D) 01 viên thuốc lắc và 01 gói ma túy dạng khay với giá 2.400.000 đồng;

(3) Phan Thanh T (sinh năm 1988; trú tại: T, D) 07 viên thuốc lắc và 01 gói ma túy dạng khay với giá 4.800.000 đồng.

Ngoài các đối tượng trên, N còn bán ma túy cho: Trần Văn Đ, Phan Công H, Trần Minh S, Hà Thị T nhiều lần để kiếm lãi nhưng không nhớ rõ cụ thể. Số tiền lãi N thu được khoảng 8.750.000 đồng.

Trần Thị T thừa nhận vào ngày 28/11/2018 liên lạc với Nguyễn Thị Thanh N hỏi mua 100 viên ma túy kẹo và một hộp ma túy khay với tổng số tiền 43.000.000 đồng; T đưa trước cho N số tiền 30.000.000 đồng, số tiền còn lại T nợ và sẽ trả sau khi bán ma túy.

Ngoài ra, từ tháng 9/2018 T còn nhiều lần liên hệ mua ma túy của Nguyễn Thị Thanh N thì được N yêu cầu liên lạc với B để B trực tiếp mang ma túy đến các quán Karaoke D, L và Q ở thị trấn N, D giao cho T; có lúc B đưa ma túy cho một người đàn ông tên T đến giao cho T hoặc giao trực tiếp cho khách. Mỗi lần như vậy thì T hưởng lợi được số tiền 50.000 đồng/01 viên thuốc lắc, 200.000 đồng/01 chỉ ma túy dạng khay.

Cơ quan điều tra đã xác minh, triệu tập Lê Chỉ H, Lê Huỳnh P, Phan Thanh T, Hà Thị T, Trần Văn Đ, Phan Công H, Trần Minh S, Nguyễn Viết C, Quang Ngọc A để làm việc, cụ thể:

- Lê Chỉ H, Lê Huỳnh P, Phan Thanh T đều thừa nhận điện thoại cho N để mua ma túy sử dụng tại quán Karaoke Q ở thị trấn N, D nhưng người đến giao ma túy và nhận tiền của H là B; người giao ma túy và nhận tiền của T là người thanh niên lạ mặt đi cùng B; người giao ma túy và nhận tiền của P là người thanh niên lạ mặt.

- Hà Thị T (tên gọi khác là T sinh năm 1992; trú tại: Quảng Ngãi) khai trong tháng 9/2018 mua ma túy của B 02 lần tại quán Karaoke D ở thị trấn N, D trong đó lần đầu B trực tiếp giao ma túy và lấy tiền, lần sau thì người thanh niên không rõ lai lịch đến giao.

- Trần Văn Đ (sinh năm 1992; trú tại: Quảng Nam) khai khoảng giữa năm 2018 đã 03 lần mua ma túy của Nguyễn Thị Thanh N tổng cộng 06 viên ma túy thuốc lắc và 1,5 chỉ ma túy dạng khay với giá 5.700.000 đồng tại quán karaoke Q, trong đó lần cuối B là người đến giao ma túy và nhận tiền từ Đ.

- Phan Công H (sinh năm 1994; trú tại: D, Quảng Nam) khai trong năm 2018 đã 02 lần mua ma túy của Nguyễn Thị Thanh N tổng cộng 03 viên ma túy thuốc lắc với giá 1.200.000 đồng tại quán karaoke Q. Ngoài ra, khoảng cuối năm 2018 H còn mua 01 viên ma túy (thuốc lắc) của B với số tiền 400.000 đồng tại quán karaoke Q.

- Trần Minh S (sinh năm 1989; trú tại: Xã T, D, Quảng Nam) khai khoảng giữa năm 2018, đã 02 lần mua ma túy của Nguyễn Thị Thanh N tổng cộng 03 viên ma túy thuốc lắc và 01 chỉ ma túy dạng khay với giá 3.200.000 đồng tại quán karaoke L, nhưng lần thứ hai B là người giao ma túy và nhận tiền từ S. Ngoài ra, sau lần mua của N khoảng nửa tháng, Sang còn 02 lần mua của B tổng cộng 02 viên thuốc lắc và 01 chỉ ma túy dạng khay với giá 2.800.000 đồng.

- Nguyễn Viết C (sinh năm 1991; trú tại: Xã T, D, Quảng Nam) khai nhận khoảng tháng 10/2018 đã góp tiền cùng S mua tổng cộng 04 viên thuốc lắc và 02 chỉ ma túy dạng khay để sử dụng và thấy B là người đem đến.

Cơ quan điều tra tổ chức cho những người mua ma túy nêu trên nhận dạng qua ảnh đối với Nguyễn Ngọc S (tên gọi khác là B sinh năm 1990; trú tại: thị trấn N, D, Quảng Nam), Nguyễn Thị Thanh N và Trần Thị T. Các đối tượng đều xác nhận B, N, T là người bán ma túy cho mình như đã khai.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Ngọc S khai khoảng tháng 9/2018, nhận của N 50 viên ma túy tổng hợp dạng thuốc lắc và một hộp ma túy dạng khay để sử dụng và bán giúp cho N. Sơn đã nhiều lần giúp N bán ma túy cho nhiều người tại các quán Karaoke L, D, Q trên địa bàn thị trấn N, D để hưởng lợi 50.000 đồng/01 viên thuốc lắc và 200.000 đồng/01 chỉ khay nhưng chỉ nhớ bán cho T khoảng 3 lần mồi lần từ 03 đến 04 viên ma túy tổng hợp dạng thuốc lắc và 01 chỉ khay với giá 400.000 đồng/01 viên thuốc lắc, 2.000.000 đồng/ 01 chỉ khay; bán cho Pháp 01 viên thuốc lắc và 01 chỉ khay với giá 2.400.000 đồng; bán cho Trang 02 lần tổng cộng 03 viên thuốc lắc với giá 1.200.000 đồng, số tiền lãi Sơn thu được khoảng 3.000.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số 159/PC 09 ngày 05/12/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam kết luận: 100 viên dạng nén là ma túy, loại MDMA, khối lượng 40,239 gam và chất rắn dạng bột màu trắng là ma túy, loại Ketamine, khối lượng 9,008 gam.

Tại Bản án sơ thẩm số 24/2019/HS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2019, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thanh N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 251; điểm s, n, r khoản 1, khoản 2 Điều 51 điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh N 12 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01/12/2018 đến ngày 07/12/2018.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên các bị cáo Trần Thị T, Nguyễn Ngọc S đều phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xử phạt bị cáo T 10 năm tù, bị cáo Sơn 06 năm tù; truy thu số tiền thu lợi bất chính của các bị cáo sung vào ngân sách nhà nước (bị cáo N bị truy thu 14.000.000 đồng); xử lý vật chứng; án phí hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo và phổ biến quyền kháng cáo cho các bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 20/8/2019 bị cáo Nguyễn Thị Thanh N có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Nguyễn Thị Thanh N giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình tố tụng tại Tòa án cấp phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng khác thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.

Về nội dung: Trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa đã có đủ cơ sở kết luận Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử, kết tội bị cáo Nguyễn Thị Thanh N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt thì thấy: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ, toàn diện tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; đặc điểm nhân thân; hoàn cảnh gia đình nên đã quyết định xử phạt bị cáo N 12 năm tù là đã thể hiện sự khoan hồng đặc biệt đối với bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo N đã nộp số tiền 4.000.000 đồng, đây là một phần của số tiền 14.000.000 đồng thu lợi bất chính do Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc bị cáo phải nộp để sung quỹ Nhà nước nên không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để được chấp nhận xem xét giảm nhẹ mức hình phạt, nhưng đã phần nào thể hiện ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo để xem xét giảm mức hình phạt trong giai đoạn bị cáo chấp hành hình phạt sau này; ngoài ra, các tình tiết khác đều đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét khi quyết định hình phạt, không có nội dung nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Hi đồng xét xử đã công bố bản luận cứ của Luật sư Vũ Minh Thương bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Thanh N. Luật sư có ý kiến nhất trí với tội danh nhưng mức hình phạt do Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là quá nặng; Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình của bị cáo, bản thân bị cáo là nữ, có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự; tại thời điểm phạm tội bị cáo đang mang thai để tuyên bị cáo mức án thấp nhất, tạo điều kiện cho bị cáo tự sửa chữa lỗi lầm, phấn đấu cải tạo tốt để làm người công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Thanh N đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi trước ngày bị bắt giữ khoảng từ 03 đến 04 ngày, bị cáo đã mua của một người đàn ông tên U ở Thành phố Hồ Chí Minh (không rõ lai lịch) 100 viên ma túy tổng hợp (loại MDMA) có khối lượng 40,239 gam và 01 túi ni lông chất rắn dạng bột màu trắng là ma túy tổng hợp dạng khay (loại Ketamine) có khối lượng 9,008 gam với số tiền 35.000.000 đồng nhằm mục đích bán lại cho Trần Thị T để thu lợi. Đến hồi 11 giờ 30 phút ngày 01/12/2018, khi đang trên đường vận chuyển số ma túy trên giao cho Trần Thị T thì Nguyễn Thị Thanh N bị Tổ công tác Công an huyện D phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra, bị cáo N còn khai nhận trong khoảng thời gian từ tháng 6/2018 đến tháng 9/2018, N mua ma túy của người thanh niên tên S ở thị trấn N, huyện D khoảng từ 05 đến 07 lần, mỗi lần từ 03-07 viên thuốc lắc với giá 350.000 đồng/01 viên và 01 chỉ khay với giá 2.000.000 đồng/01 chỉ đem về bán lại cho những người nghiện ma túy, thu lợi nhuận khoảng 1.500.000 đồng; tháng 9/2018, N còn mua của U 50 viên ma túy thuốc lắc và 01 hộp ma túy dạng khay với giá 23.750.000 đồng và nhờ người có tên B bán giúp rồi trả tiền công cho B là 50.000 đồng/01 viên thuốc lắc và 200.000 đồng/01 chỉ ma túy khay, thu lợi nhuận khoảng 8.750.000 đồng. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo Trần Thị T, Nguyễn Ngọc S; phù hợp với lời khai của các đối tượng đã mua ma túy của Nguyễn Thị Thanh N để sử dụng; phù hợp với vật chứng bị thu giữ, kết luận giám định và phù hợp các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Do đó, có đủ căn cứ kết luận: Với các hành vi nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2019/HS-ST ngày 12/8/2019, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thanh N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g khoản này” theo quy định tại điểm h khoản 3 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thanh N xin giảm nhẹ mức hình phạt thì thấy:

[2.1] Theo quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người nào phạm tội thuộc một trong các trường hợp tại khoản 3 phải chịu hình phạt tù từ 15 năm đến 20 năm. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; xét bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Phạm tội 02 lần trở lên” nên bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015; tuy nhiên, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm n, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (do khi phạm tội, bị cáo là phụ nữ có thai; sau khi vụ án bị phát hiện, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và tự thú nhận những lần phạm tội trước đó; bản thân bị cáo N chưa có tiền án, tiền sự, xuất thân từ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, hiện đang nuôi con nhỏ và cha ruột bị cáo được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhất, hạng Ba nên) nên Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo N 12 năm tù, dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là có căn cứ và đã thể hiện sự khoan hồng đặc biệt đối với bị cáo.

[2.2] Xét các nội dung trong đơn kháng cáo, đơn xin xác nhận hoàn cảnh gia đình khó khăn, ý kiến của Luật sư bào chữa và lời trình bày của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm xin được giảm nhẹ mức hình phạt thì thấy: Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã nộp số tiền 4.000.000 đồng (là một phần của số tiền 14.000.000 đồng thu lợi bất chính do Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc bị cáo phải nộp để sung quỹ Nhà nước) nên không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để được chấp nhận xem xét giảm nhẹ mức hình phạt đúng như ý kiến của Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa; tuy nhiên, tình tiết này đã phần nào thể hiện ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo nên Hội đồng xét xử đề nghị các cơ quan có thẩm quyền ghi nhận để xem xét giảm mức hình phạt trong giai đoạn bị cáo chấp hành hình phạt. Đối với các nội dung khác như nguyên nhân dẫn đến bị cáo phạm tội xuất phát từ hoàn cảnh quá khó khăn, bị cáo đang mang thai, không có việc làm; bản thân mồ côi cha từ nhỏ, trình độ văn hóa thấp, thiếu hiểu biết về pháp luật; chồng bị cáo đã ly hôn, bị cáo phải nuôi dưỡng chăm sóc mẹ già và 02 con (con nhỏ mới có 01 tuổi) đều đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét khi quyết định hình phạt; ngoài ra không có nội dung nào mới. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và ý kiến của Luật sư bào chữa đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[2.3] Do bị cáo hiện nay đang nuôi con nhỏ và hoàn cảnh gia đình có khó khăn nên bị cáo có thể làm đơn đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù gửi Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam để được xem xét; khi bị cáo đi chấp hành hình phạt của bản án, bị cáo cần phấn đấu cải tạo tốt, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật và quy chế của trại giam để có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù hoặc tha tù trước thời hạn theo các quy định của pháp luật.

[3] Các quyết định về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo khác và các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4] Án phí phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo N phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, 1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thanh N; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2019/HS-ST ngày 12 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị Thanh N.

Áp dụng điểm h khoản 3 Điều 251; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm n, r, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh N 12 (mười hai) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 01 tháng 12 năm 2018 đến ngày 07 tháng 12 năm 2018.

2. Các quyết định của Bản án sơ thẩm về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo Trần Thị T, Nguyễn Ngọc S; truy thu số tiền thu lợi bất chính của các bị cáo sung vào ngân sách nhà nước (bị cáo N bị truy thu 14.000.000 đồng); xử lý vật chứng; án phí hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Thị Thanh N phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng; được đối trừ vào số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng bị cáo Nguyễn Thị Thanh N đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0000212 ngày 09 tháng 10 năm 2019 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam (Bị cáo Nguyễn Thị Thanh N đã nộp đủ án phí hình sự phúc thẩm).

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

263
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 356/2019/HS-PT ngày 12/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:356/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về