Bản án 355/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 355/2020/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 24 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án Nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân Gia đình thụ lý số 185/2020/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn, con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 165/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 133/2020/QĐST- HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Thu T, sinh năm 1982 (Có Đơn xin xét xử vắng mặt) HKTT: Tổ A, ấp H, TT. A, huyện C, tỉnh An Giang.

Nơi cư trú: Tổ A, ấp H2, TT. A, huyện C, tỉnh An Giang.

- Bị đơn: Ông Trần Văn Phụng E, sinh năm 1976 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ A, ấp H, TT. A, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai cùng ngày 18/5/2020 và lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn - Bà Hồ Thị Thu T trình bày:

- Về hôn nhân: Bà và ông Phụng E kết hôn với nhau vào năm 2002, hôn nhân do mai mối, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn ông bà về chung sống bên gia đình cha mẹ chồng. Vợ chồng sống êm ấm hạnh phúc được hơn 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng trong cuộc sống, ông Phụng E sinh ra ăn nhậu thường xuyên, không chí thú làm ăn, ít chăm lo đến gia đình vợ con, một mình bà phải lo toan cho cuộc sống, lo cho con ăn học… Từ đó dẫn đến bất đồng trong tình cảm vợ chồng, không còn tôn trọng, tin tưởng nhau nữa nên vợ chồng ông bà luôn bất hòa, gia đình không hạnh phúc. Từ tháng 01 năm 2018 ông bà ly thân nhau cho đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, bà yêu cầu ly hôn với ông Trần Văn Phụng E.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Trần Thị Ánh H, sinh ngày 06/02/2003. Hiện cháu H đang sống với ông Phụng E, trong Đơn khởi kiện ngày 18/5/2020, bà T yêu cầu sau khi ly hôn bà được nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng. Tuy nhiên tại phiên họp công khai chứng cứ ngày 28/7/2020 bà thay đổi ý kiến: Sau khi ly hôn bà đồng ý để ông Phụng E được trực tiếp nuôi con chung, bà không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung của vợ chồng: Không có, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn – Ông Trần Văn Phụng E: Đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông không đến Tòa án và cũng không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà T.

Theo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và kết quả thu thập chứng cứ của Tòa án:

- Các tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp gồm: Phiếu bưu báo phát chuyển hồ sơ khởi kiện cho ông Phụng E; Giấy chứng minh nhân dân, hộ khẩu của nguyên đơn (Bản sao); Giấy chứng nhận kết hôn (Bản chính); Giấy khai sinh cháu H (Bản chính); Bản tự khai; Đơn xin xét xử vắng mặt ngày 20/8/2020.

- Bị đơn: không cung cấp tài liệu, chứng cứ.

- Các tài liệu, chứng cứ do Tòa án tiến hành thu thập: Biên bản không lấy được lời khai của ông Phụng E ngày 13/8/2020; Biên bản xác minh bà Lâm Thị A1 ngày 13/8/2020; Tờ ghi ý kiến của con chung – Trần Thị Ánh H ngày 13/8/2020.

Tại phiên tòa:

- Nguyên đơn: Vắng mặt và có Đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát Nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến:

Việc chấp hành pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã thực hiện đúng trình tự tố tụng, nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định tại Điều 70 và Điều 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Về hôn nhân: Bà T được ly hôn với ông Phụng E; Về con chung: Ông Phụng E được tiếp tục nuôi con chung là Trần Thị Ánh H, sinh ngày 06/02/2003, bà T không phải cấp dưỡng nuôi con do ông Phụng E không yêu cầu; Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Bà T xác định không có, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không đặt ra xem xét. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà T phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

1.1 Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Bà Hồ Thị Thu T có đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Trần Văn Phụng E do vậy xác định đây là tranh chấp về hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

1.2 Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Ông Trần Văn Phụng E có nơi cư trú tại tổ A, ấp H, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang. Do đó, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh An Giang.

1.3 Về sự có mặt của các đương sự: Nguyên đơn - Bà T vắng mặt tại phiên toà, tuy nhiên bà đã có Đơn xin xét xử vắng mặt ngày 20/8/2020 phù hợp theo quy định nên được chấp nhận; Bị đơn – Ông Phụng E đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng như: Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo về phiên đối chất, Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông Phụng E vắng mặt tại phiên toà đến lần thứ hai mà không có lý do. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà T và ông Phụng E.

[2] Về nội dung tranh chấp:

2.1 Về hôn nhân: Bà T và ông Phụng E có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình, hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp và được pháp luật bảo vệ khi xảy ra tranh chấp.

Quá trình chung sống giữa bà T và ông Phụng E xảy ra mâu thuẫn không thể khắc phục, theo bà T nguyên nhân là do bất đồng trong cuộc sống, ông Phụng E sinh ra ăn nhậu thường xuyên, không chí thú làm ăn, ít chăm lo đến gia đình vợ con, một mình bà phải lo toan cho cuộc sống, lo cho con ăn học. Bà và ông Phụng E đã ly thân nhau từ tháng 01 năm 2018 cho đến nay. Nay bà yêu cầu ly hôn với ông Phụng E.

Theo Biên xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông Phụng E ngày 13/6/2020 (Bút lục 52), bà Lâm Thị A1 là mẹ ruột của bà T trình bày: Theo bà biết mâu thuẫn giữa vợ chồng bà T và ông Phụng E là do ông Phụng E có tính ghen tuông, thường nhậu nhẹt không lo làm ăn, bà T phải lo lắng trong ngoài nên giữa vợ chồng cắn đắng. Việc vợ chồng bà T và ông Phụng E mâu thuẫn và bất hòa có được người lớn hàn gắn nhiều lần. Về thời gian ly thân giữa bà T và ông Phụng E thì bà xác định bà T về nhà bà ở từ tháng 11 năm 2018 đến nay.

Từ những nội dung nêu trên, xét thấy cuộc hôn nhân hiện nay giữa bà T và ông Phụng E lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc duy trì quan hệ hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai vì thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay và trong thời gian ly thân cả hai không hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Thủy, bà T được ly hôn với ông Phụng E.

2.2 Về con chung: Giữa bà T và ông Phụng E có 01 con chung tên Trần Thị Ánh H, sinh ngày 06/02/2003. Hiện cháu H đang sống với ông Phụng E. Theo trình bày của bà T, sau khi ly hôn bà đồng ý để ông Phụng E được trực tiếp nuôi con chung, bà không cấp dưỡng nuôi con. Bên cạnh, tại Tờ ghi ý kiến của con chung ngày 13/8/2020, cháu H trình bày từ khi cha mẹ ly thân thì cháu sống với cha tại nhà bà nội, nay cha mẹ ly hôn cháu có nguyện vọng được tiếp tục sống với cha là ông Phụng E. Do đó, để ổn định cuộc sống của con chung hội đồng xét xử quyết định giao con chung là cháu H cho ông Phụng E được tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu H đủ 18 tuổi. Ông Phụng E phải tạo điều kiện cho bà T trong việc tới lui thăm nom chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Do ông Phụng E không yêu cầu nên bà T không phải cấp dưỡng nuôi con. Về quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn Nhân và Gia đình.

2.3 Về tài sản chung, nợ chung của vợ chồng: Bà T xác định không có, không yêu cầu Toà án giải quyết nên hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm:

Bà T là nguyên đơn phải chịu án phí Hôn nhân Gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

[4] Quyền kháng cáo: Bà T và ông Phụng E có quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự:

- Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân Gia đình năm 2014:

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

1. Về hôn nhân: Bà Hồ Thị Thu T được ly hôn với ông Trần Văn Phụng E.

Giấy chứng nhận kết hôn số 25, quyển số I/2013 ngày 12/03/2013 của Ủy ban nhân dân thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

Giao con chung là Trần Thị Ánh H, sinh ngày 06/02/2003 cho ông Trần Văn Phụng E được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục đến khi cháu H đủ 18 tuổi.

Ông Phụng E phải tạo điều kiện cho bà T trong việc tới lui thăm nom chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Do ông Phụng E không yêu cầu nên bà T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con được thực hiện theo quy định của Luật Hôn Nhân và Gia đình.

3. Về án phí sơ thẩm: Bà Hồ Thị Thu T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân Gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006945 ngày 03/6/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang.

4. Quyền kháng cáo: Bà Hồ Thị Thu T và ông Trần Văn Phụng E có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 355/2020/HNGĐ-ST ngày 24/09/2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:355/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về